Đời sống đau khổ, giống như ở trong căn nhà tối, đầy dẫy những hắc ám vô minh, vì thế muốn thoát ly đau khổ thì phải tu nhân tích đức, cũng như dùng ngọn đèn sáng, phá trừ sự tối tăm đau khổ. Đèn là 1 trong 6 phẩm vật dâng cúng dường Đức Phật.
Một điểm đèn tâm sáng tự nhiên
Hà sa rạng chiếu khắp vô biên
Ngàn sông có nước ngàn trăng hiện
Muôn dặm không mây muôn dặm thiên.
Đèn tiêu biểu cho nhẫn nhục, vì nhẫn nhục thì chuyển lửa sân hận làm ánh đại quang minh.
* Duyên khởi sử dụng đèn:
Liên quan đến duyên khởi của việc sử dụng đèn căn cứ theo Quyển 50, Luật Tứ Phần chép: “Đương thời các Tỳ kheo ở trong ngôi nhà tăm tối, Đức Phật mới cho thắp đèn sáng lên, các Tỳ kheo mới bạch Phật, vậy nên để đèn ở đâu. Phật dạy: Nên để ở góc giường, trên miệng bình, nếu như để ở giữa vách thì cần phải ngăn trùng kiến. Nếu như đèn lu mờ sắp tắt thì cần phải kéo tim lên, nếu như sợ dơ tay thì dùng que để kéo, nếu que tre dễ cháy thì cho làm que sắt.
Đèn được chia làm 2 loại:
1/ Chỉ dùng lúc để lễ bái, tụng kinh thì thắp lên.
2/ Là loại trương minh đăng, đèn thắp sáng hoài thì không phân biệt ngày đêm, còn gọi là trương minh đăng, vô tận đăng.
Trong Luật chép: Đức Phật cho sử dụng đèn để thắp sáng Tăng phòng và chỗ an trí đèn, Phật dạy rõ thật ràng, đối với việc sử dụng đèn trong Kinh Phật chỉ rõ phương pháp và trình tự.
Nhân thế mà trong nhà Phật dạy: “Một ngọn đèn trừ được tối 1.000 nhà, một trí huệ hay trừ ngu muôn năm”.
Trong Kinh Phật dạy: “Nếu ở trước tháp Phật, chùa Phật, hình tượng Phật, kinh điển, đốt đèn cúng dường thì được nhiều công đức”.
Trong Kinh Phật qui định: Lúc đốt đèn thì trước hết đốt ở trước tượng Phật, Xá lợi Phật, kế đó mới đốt những ngọn đèn bên cạnh, lúc tọa thiền đốt đèn ở thiền đường thì phải báo cho chư Tăng biết, sau đó mới đốt ở chỗ kinh hành, đường đi trên gác. Nếu như dầu đủ dùng thì đèn ở nhà xí phải thắp suốt đêm không tắt.
* Ý nghĩa đốt đèn:
Nếu như ở trước tháp Phật, tượng Phật, Kinh điển, đốt đèn cúng dường thì được công đức rất lớn. Có rất nhiều Kinh nói về việc nầy.
Trong kinh Thí Đăng Công Đức chép: Tín ngưỡng Phật Pháp Tăng, cúng dường đèn nến, được phước báu vô biên. Sau khi Phật nhập diệt dùng đèn để cúng dường nơi chùa tháp thì hiện đời được ba loại tâm thanh tịnh, khi mệnh chung do thiện tâm nầy không mất, nên được ba loại trí tuệ. Sau khi chết được sanh về cõi trời 33.
Kinh Tăng Nhất A Hàm chép: “Đức Đăng Quang Như Lai vào thuở quá khứ, lúc còn làm Tỳ kheo già, dùng đèn dầu ngày ngày cúng dường Đức Bảo Tạng Như Lai, nhân thế mà được thành Phật, được Đức Phật thọ ký”.
Kinh Hiền Ngu chép: Có người nữ nghèo thành tâm cúng dường một ngọn đèn, do sự thành tâm ấy mà đèn cháy mãi không tắt, còn vua cúng nhiều ngọn nhưng sớm bị tắt hết, cho nên mới nói: “Người nghèo một ngọn đèn, nhà vua một vạn ngọn đèn”. Đây là nói về sự trọng yếu của người thành tâm cúng dường.
Bồ Tát Bổn Hạnh Kinh chép: Xà Na Tạ Lê Vương vì nghe pháp mà để trần thân, khoét thắp 1000 ngọn đèn để cầu đạo quả giác ngộ.
Đức Phật dạy cúng dường đèn được 10 thứ công đức:
Dù sanh ở nơi nào, nhục nhãn cũng không hư.
Được thiên nhãn
Được pháp lành
Trừ sạch tối tăm
Được ánh sáng trí tuệ.
Dù bị trôi lăn trong thế gian nhưng không mê mờ.
Được phước báu lớn
Mạng chung sanh về cõi Trời
Mau được Niết Bàn
Sáng suốt như ngọn đèn soi thế gian.
Ngoài ra nhân vì đèn phá tan tối tăm, ánh sáng tỏa khắp, cho nên Phật giáo thường đem Phật pháp, trí huệ dụ cho đèn. Nhân vì trí huệ phá tan ngu si, cho nên gọi trí huệ là ngọn đèn sáng suốt giữa đêm tăm tối.
Kinh Đại Niết Bàn chép: Vì tăm tối phiền não, cho nên chúng sanh không thấy rõ trí tuệ. Như Lai khéo dùng phương tiện, thắp lên ngọn đèn trí huệ, để khiến cho các Bồ tát thấy Niết Bàn thường lạc ngã tịnh.
Phật giáo đem Pháp mạch của Phật pháp gọi là Pháp đăng;
Thầy truyền Pháp cho học trò gọi là Truyền đăng;
Pháp Phật được truyền thừa một cách liên tục gọi là Tục đăng;
Đèn đèn truyền nhau, nối mãi không dứt, xán lạn ngàn đời thì gọi là Vô tận đăng.
Kinh Tân Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Pháp Giới chép: Thiện Tài đốt ngọn đèn chánh pháp, dùng lòng tin làm tim, từ bi làm dầu, tâm niệm là chong đèn, công đức làm ánh sáng, trừ diệt hết ba độc.
Triều nhà Tống cao Tăng Thích Phổ Tế căn cứ vào đèn pháp truyền nhau nên viết ra sách Ngũ Đăng Hội Nguyên.
* Chong đèn:
Chong đèn là một khí vật dùng để đựng dầu thắp đèn, được làm bằng nhiều chất liệu và hình dạng khác nhau như: Vàng, bạc, đồng đỏ, sứ, thủy tinh…
Lại căn cứ vào Quyển 16, Kinh Hoa Nghiêm chép: Có đèn dầu tô, đèn dầu, đèn báu, đèn ma ni, đèn cây sơn, đèn lửa, đèn hương trầm thủy, đèn hương chiên đàn, đèn vua tất cả loài hương. Có 10 loại như thế. Đèn đa phần được để trên đế hoặc trong lồng.
* Lồng đèn – Ống khói đèn :
Lồng đèn: Là một dụng cụ che xung quanh đèn, có tác dụng không làm cho đèn bị gió thổi tắt, lại cũng có tác dụng ngăn muỗi, bươm bướm, côn trùng,… bay vào mà bị chết cháy. Ngoài chất liệu làm bằng đất nung ra, còn có thể dùng : Tơ lụa, giấy, đá,… để chế tạo thành.
Nguồn gốc của lồng đèn, trong Tỳ Nại Da Tạp Sự chép: Ở thành thất La Phiệt, nương theo lời Thế tôn dạy, đêm tối tụng kinh, lúc ấy có con rắn bò đến, vị Tỳ kheo trẻ tuổi thấy bèn hốt hoảng la lên “rắn rắn, con rắn kìa…” Các Tỳ kheo phàm phu đều sợ hãi, bèn khiến cho những người tham dự tụng kinh thiếu mất đoạn này. Hôm sau các Tỳ kheo đem nhơn duyên bạch Phật: Phật dạy nên làm cái lồng để chụp đèn lại, đây là nguyên do của lồng đèn trong Phật giáo.
Thuở ban đầu lồng đèn làm rất đơn giản, theo Tỳ Nại Da Tạp Sự chép: Đức Phật dạy các Tỳ kheo, nên dùng trúc bện làm sườn, lấy lụa bịt xung quanh, hoặc có thể mời một người thợ gốm làm một cái sườn lồng đèn bằng đất nung, bốn bên khoét những lỗ trống.
Lại có thể dùng cái bình bằng đất nung rồi bịt kín đáy, xung quanh khoét những lỗ hỏng, dùng giấy mỏng dán vào xung quanh, để bảo vệ đèn không tắt, và khỏi bị côn trùng bay vào.
Đăng lung (lồng đèn) còn gọi là đăng lâu, đăng lô, đăng lữ,… Sau nầy tùy theo chất liệu chế tạo có thay đổi, nên tên gọi cũng thay đổi như : Thạch đăng lung, thiết đăng lung, đồng đăng lung, cao đăng lung, triết đăng lung, toàn chuyển đăng lung (tẩu mã đăng), mẫu đơn đăng lung, liên hoa đăng lung, long đầu đăng lung, đề đăng lung, câu đăng lung, đới đăng lung, chỉ đăng lung, pha lê đăng lung,… bên trong các loại lồng đèn có họa vẽ hình chim thú, cá, hoa cỏ, trông thật đẹp mắt.
Những nơi như : Phật điện, thiền phòng, giảng đường, nhà khách, hành lang, nhà xí,… lồng đèn thường được bố trí.
Mấy chục năm gần đây, ngành khoa học văn minh phát triển, những loại lồng đèn thời xa xưa, dường như được thay thế bằng điện. Nhớ lại ban đêm nơi phạm sát, ngọn đèn dầu leo lét trông thật đẹp mắt trang nghiêm, nay thì không còn thấy nữa.
Theo Luật Ngũ Phần: “Đức Phật cho lúc Bố tát thuyết giới đốt đèn, nhưng vào đêm mùa hạ đốt đèn rất dễ làm tổn thương côn trùng, cho nên đức Phật bảo phải làm cái lồng để chụp lại, chất liệu có thể làm bằng đất nung, sắt, đồng,… chế thành, nếu cái lồng bị rách hư thì phải dùng giấy, lụa để dán lại, nhằm tránh khỏi côn trùng bay vào mà bị chết cháy”.
* Giá cắm nến (chân đèn):
Tại Ấn Độ và Trung Quốc, đèn dâng cúng Phật Bồ tát là dùng đèn dầu, sau nầy đèn sáp xuất hiện, do đó nhà Phật cũng dùng loại đèn nầy để dâng cúng.
Chúc đài là giá cắm nến, có tác dụng để cho ánh sáng của ngọn đèn khi thắp tỏa sáng ra xa. Nó là một trong ba loại mà trên bàn Phật phải có cho nên còn gọi là tam cụ túc: Lư hương, bình hoa, chân đèn. Chân đèn phối hợp với bình hoa để hai bên lư hương.
Người Ấn Độ khi xưa, vì thành kính nên dâng cúng đèn dầu lên đức Phật rất nhiều. Về sau, đèn nến ra đời thì xuất hiện giá cắm nến, giá cắm nến có thể từ nơi cái đế để đèn dầu mà cách tân thành.
Vì hình dạng chân đèn sáng này có hình tròn, có khi được trang trí hoa văn hay hình tượng hạc đứng trên lưng rùa, có khi hạc ngậm lá sen, ngoài ra còn có nhiều kiểu khác nữa.
Chất liệu của chân đèn, có khi làm bằng gỗ, bằng sắt, bằng đồng, bằng đá. Xưa kia người giàu sang cũng có khi dùng vàng bạc để đúc thành.
Công dụng của chân đèn là dùng để cắm đèn cầy, nâng độ cao của ngọn đèn lên, có thể khiến cho ánh sáng tỏa ra xa, hứng sáp đèn nhiễu xuống không làm dơ bàn thờ đồ cúng, ngăn ngừa hỏa hoạn …
Nhìn chung đèn trí tuệ vốn do tâm tạo, đường lành dữ đều vào Phật duyên, cậy nhờ bí mật gia trì, bèn khiến quang minh soi thấu. Trong cõi u minh minh khắp hiện bầu trời quang đãng, trước đài hoa thơm hiên ra chơn tướng niết bàn. Phật quang vừa chiếu địa ngục tối lui, thắp lên ngọn đèn trí tuệ cháy mãi không cùng, tiêu trừ nghiệp chướng, ba đường dứt hẳn, mau chứng quả vị bốn hiền. Đó là công đức và ý nghĩa thắp đèn.
◊-◊—————————————————————————————————-◊-◊
THÍCH THỊ PHƯỚC
Từ đó, nguồn cội yêu thương hiếu đạo đã được khơi dậy một cách mạnh mẽ, nên rằm tháng bảy trở thành một lễ hội truyền thống tri ân cao quý của Phật giáo: Tết trung nguyên, rằm tháng bảy, địa quan xá tội, Mục liên cứu mẹ, lễ tự tứ,…Đây là ngày lễ truyền thống của đạo lý Việt Nam, dạy cho mọi người xóa bỏ hận thù, biết làm mới với tinh thần “Xá Tội – tha thứ những lỗi lầm”.
Con quỳ lạy Phật Thích Ca
Chứng minh đệ tử tên là Mục Liên
Lòng con mộ đạo tu hiền
Xuất gia theo Phật cầu nguyền hôm nay.
Nghe kinh Phật thuyết bảy ngày
Minh tâm kiến tánh như lai trọn lành
Lục thông đầy đủ nên danh
Muốn tìm Cha Mẹ lòng thành gắng công.
Đền ơn cho bú ẵm bồng
Liền dùng đạo nhãn xem liền thế gian
Thấy vong Mẹ khổ muôn vàn
Ốm gầy đói khát trong đàng quỷ ma.
Mục Liên kêu Mẹ khóc la
Đau lòng thương Mẹ đọa sa Diêm đình
Thanh Đề nhìn thấy con mình
Mục Liên cứu Mẹ hết tình gắng công.
Con ơi! Mẹ đói trong lòng
Mục Liên nghe nói khóc ròng thở than
Vội vàng trở lại thế gian
Bới cơm một bát đem sang Mẹ mừng.
Và cơm vô miệng nửa chừng
Chén cơm hóa lửa phừng phừng thành than
Mục Liên xem thấy kinh hoàng
Trong lòng đau đớn khóc than buồn tình.
Mẹ ơi! Niệm Phật độ mình
Trở về lạy phật cầu xin Mẹ già
Thích Ca Đức Phật phân qua
Mẹ ngươi tội nặng đọa ra nghiệp hành.
Ta truyền cứu tế pháp lành
Cần cầu Tăng chúng tịnh thanh chú nguyền
Cầu cho Phụ Mẫu hiện tiền
Lục thân quyến thuộc bình yên đều hòa.
Bảy đời Phụ Mẫu đã qua
Về Trời hưởng phước sáng lòa hào quang
Vui chơi thong thả thanh nhàn
Ngày rằm tháng Bảy lập đàn trai tăng.
Sắm cơm trăm món đồ ăn
Trái cây ngũ quả hương đăng rõ ràng
Chiếu, giường, bồn nước, mùng, màn
Dầu, đường, trà lá, bát vàng đựng cơm.
Những đồ vật quý bông thơm
Thành tâm dọn tiệc Lan Bồn phân minh
Cúng dường Tam Bảo cầu Kinh
Chư Tăng tịnh giới giữ gìn nghiêm trang.
Cầu cho Thí chủ Trai đàn
Tâm hành thiền định vái van chúc nguyền
Thanh Đề khổ ách hết liền
Ngày rằm tháng Bảy thành tiên về Trời.
Noi gương hiếu thảo đời đời,
Xót thương Phụ Mẫu hiện thời nuôi con.
Nhai cơm cho bú hao mòn
Ơn sâu nghĩa nặng thương con hết lòng.
Trời cao đất rộng mênh mông
Biển hồ lai láng sánh đồng Thái sơn
Tu hành báo tứ trọng ân
Độ đời ba cõi sạch trơn trọn lành.
Mục Liên đại hiếu tu hành
Báo ân Phụ Mẫu nên danh độ đời.
Câu chuyện của hai đóa hồng trong đêm trước ngày Vu Lan. Đó là Hồng Nhung đỏ Giảm và Hồng trắng tinh khôi.
Ngày lễ Vu La n người ta cài lên cánh mình đóa Hồng Nhung nếu họ may mắn còn có mẹ, người mất mẹ cài đóa Hồng trắng cho mình.
Đêm tháng 7 Âm lịch. Ngày trăng thứ 14 đủ tròn và sáng để chiếu lên vạn vật. Vườn hồng nằm dưới ánh trăng vàng dịu dàng. Tia sương của đêm đọng lại lá, lên những cánh hồng. Những đóa hồng tỏa mùi thơm khắp không gian về đêm. Chỉ còn đêm nay nữa thôi, sáng mai sớm hết những thứ đóa hồng này sẽ được ngắt, để người đời dùng chúng thay cho lời tri ân với mẹ! Ngày Lễ Vu Lan.
Hồng Trắng được trồng cạnh Hồng Nhung. Hồng Trắng say sưa tận hưởng cái lạnh của sương, uống lấy từng giọt sương để khiến mình có thể rực rỡ nhất vào ngày mai. Đóa Hồng Nhung nhìn bạn đang cố gắng hết sức có thể để tăng nhựa sống cho mình, Hồng Nhung rụt rè nói với bạn:
– Hồng Trắng ơi, mai là ngày lễ Vu lan rồi, cậu có buồn không?
– Tại sao lại buồn chứ?
Gương mặt Hồng Trắng vẫn tươi tắn lạ thường. Hồng Nhung khẽ khàng:
– Tớ không biết vì sao trong ngày lễ Vu lan con người lại dùng tớ, một loài hoa hồng mang màu đỏ để dành cho những người còn mẹ trên đời. Còn cậu – loài hoa hồng trắng luôn phải dành cho những người đã mất mẹ. Có khi nào cậu thấy buồn không?
– Không đâu, tớ không phải là đại diện cho sự bất hạnh của những người mất mẹ, tớ thay họ nói lên tình yêu vô bờ bến mà họ dành cho mẹ. Họ dùng tớ để thay lời cảm ơn và thể hiện lòng kính yêu với mẹ, ngay cả khi mẹ không còn trên thế gian này nữa. Được cài trước lồng ngực của những người mất mẹ, tớ nghe được tiếng thổn thức, một nỗi xót xa trào dâng qua từng nhịp đập của con tim.
- Nhưng những người còn mẹ sẽ vui vẻ hơn những người mất mẹ vì vậy nếu được chọn cài lên ngực những người còn mẹ sẽ hạnh phúc hơn rất nhiều phải không nào? Hồng Nhung gặng hỏi bạn.
- Tôi nghĩ đến tớ khi nằm trên thăng của người khác, những người may mắn còn mẹ sẽ hiểu họ cần phải làm gì xứng đáng với ân huệ mà cuộc đời còn dành cho họ. Họ cần phải có nhiều hơn để đến một ngày nào đó khi phải cài đặt lên vũ khí, họ không cảm thấy ân hận vì mình đã không làm một người tốt. Tôi hạnh phúc khi nói thay tình yêu của những người mất mẹ và nuôi dưỡng tới những người còn mẹ. Tôi đã làm giả sứ của tình nguyên tử quý giá.
Hồng Nhung nhìn Hồng ngưỡng ngưỡng. Cả hai yên lặng hút dưỡng dưỡng từ đất và uống sương đêm để mình đẹp hơn vào ngày mai.
(Diệu Bạch St)
◊-◊—————————————– ———————-◊-◊
NĂM THÁNG DẦN TRÔINĂM THÁNG DẦN TRÔI
Thích Thiện Phước
Cuộc đời là một hành trình luôn đưa ta về phía trước, không giậm chân tại chỗ, không lùi lại phía sau, từng bước chân trải dài ấy, luôn mang theo: Ước mơ thách thức, hạnh phúc niềm đau, nụ cười tiếng khóc, thất bại thành công, nhục vinh được mất,… có người đạt được đỉnh cao của sự nghiệp một cách mau chóng dễ dàng khi còn rất trẻ, có người lận đận mãi vẫn không thành, có người thì chưa lên đến đài vinh quang thì nhìn lại đã già, hơi tàn sức kiệt, rồi phải chống chọi chịu đựng với bệnh tật, như chờ đợi đến hồi kết thúc một chuyến đi xa…
Ai cũng có một thời vẫy vùng xông pha nơi chân trời góc biển, rồi cũng có lúc phải thu mình bình lặng chốn quê nhà, vui cùng cỏ nội mây ngàn, đếm từng giọt mưa rơi như dòng thời gian của đời người đang trút xuống… trở về sống cho mình, ngồi cắt móng tay, đếm từng hơi thở, soi gương nhìn mặt mình thật kỹ thật lâu, để thấy những nếp nhăn in đậm nét phong trần, thấy mây bay cuối tận chân trời mà lòng đầy xao xuyến, bỗng quên đi bao ký ức về cuộc đời thành bại nhục vinh, đã là lữ khách trần gian thì cái gì là của họ của ta, đến lúc an lòng nhìn lại buông xuôi muôn duyên để nhẹ lòng cho một chuyến đi về…“cô đơn không hẵn một mình, một mình không hẵn cô đơn”, chim hót, lá rơi, bầu trời đầy sao đêm…chỉ một mình ta nhưng ngập tràn hạnh phúc bao la.
Mờ sáng rừng thiền chưa dọi nắng
Đêm về hoa cỏ cũng lặng yên
Từng tiếng chim kêu bình minh dậy
Sương lờ bóng nguyệt giới hương bay.
Thật ra, đời người mau chóng lắm bạn, tất cả mọi chúng ta đều sẽ có ngày ly biệt và đến điểm dừng, đó là ngày mà mình rời xa thế giới nầy, ly biệt người thân thương, mọi thứ mà ta gắn bó trân quí yêu thích rồi cũng phải buông xuôi, ta không giữ mãi những gì mình có được, mất mát, đổi thay, tàn hoại…vì thế gian là vô thường, có một thứ không bao giờ thay đổi, đó là luôn luôn thay đổi, sống ở đời đôi lúc cũng phải tuỳ duyên, thay đổi chính mình cho phù hợp với thời đại hoàn cảnh, nếu ta không thay đổi thì sẽ bị thay thế và lùi về phía sau.
Nếu biết còn vài ngày, vài giờ, vài phút giây nữa để sống, thì bạn sẽ sống như thế nào, và làm gì cho khoảng thời gian còn lại của mình?… Ai nấy đều có nỗi khổ niềm đau, vì vậy cho dù hoàn cảnh nào, ta phải sống tràn ngập tình thương yêu: Bản thân, mọi người và muôn loài, khi tình thương đủ lớn thì cánh cửa khổ đau cũng dần khép lại, xin cho đi tình thương vô hạn bằng nhiều phương diện ở trong đời.
Lạy Phật mong sao cho con và mọi người mọi loài sống an lành tự tại, như cánh hạc tung bay giữa bầu trời cao rộng thênh thang, như những đám mây nhẹ nhàng phiêu bồng cao vút chốn thiên không, như dòng nước thì thầm len lõi xuyên qua mọi ngóc ngách của vũ trụ bao la, thong dong từng bước chân đi ngang cuộc đời một cách an toàn không vướng mắc, như làn gió thổi qua những cánh đồng hoa cỏ, mang theo hương thơm vi diệu lan tỏa khắp mọi chân trời.
Thời gian của kiếp người là một nguồn tài nguyên có giới hạn, không thể tái chế, mua bán, trao đổi, tiền bạc châu báu mất đi hôm nay, ngày mai có thể tìm được, còn thời gian trôi qua rồi, sẽ không bao giờ trở lại. Món quà vô giá này, tạo hóa đã ban cho chúng ta và muôn loài đồng đều như nhau. Mỗi ngày đêm có 24 giờ đồng hồ, nhưng chúng ta sử dụng vào việc gì, đó là chuyện cá nhân của từng người…
Đời người sống vài mươi năm, thật quá ngắn ngủi so với vòng luân hồi vô tận. Mỗi một hành nghiệp của chúng ta, dù tốt hay xấu, đều ẩn tàng lý nhân quả ở đó. Vì vậy, khi được làm thân người, bạn hãy tận dụng cơ hội hiếm có nầy, cố gắng sống nhân từ, đạo đức, chân chánh, trung nghĩa, thanh cao, liêm khiết,… trải lòng yêu thương giúp đỡ mọi người.
Cuộc đời, vốn dĩ có nhiều sự bất an đau khổ, ta nên sống sao cho có ý nghĩa, mang lại niềm vui cho mình và người. Ngày ngày tu nhân tích đức, sớm sớm tinh tấn công phu, cầu mong cho mọi người hết khổ, sống đời an vui hạnh phúc trong cõi phù du mộng ảo nầy.
Tuy nhiên, cuộc đời thật tươi đẹp cho những ai sống chân thật với nó: Và vẫn còn đâu đó những khoảng trời bình yên vô hạn, những đàn cò trắng bay lượn xa xa trên cánh đồng lúa bất tận giữa buổi chiều thu nhạt nắng, những khu rừng nguyên sinh xanh thẳm bao la, những dòng sông tĩnh lặng uốn khúc êm đềm, những chú ong dễ thương chăm chỉ hút mật, những đàn bướm bay chập chờn trong vườn hoa cỏ dại khi bình minh về còn đượm thấm sương đêm….thành trụ hoại không – thế gian vô thường, sanh già bệnh chết – thân người giả tạm, xuân hạ thu đông – năm tháng dần trôi, lá rụng về cội nước chảy ra khơi, an nhiên cho một chuyến đi về,…
Thong dong ở mọi phương trời
Mây bay gió thổi mong đời an yên.
Gót chân thoát tục tuỳ duyên
Lối về hoa cỏ thiên nhiên thanh nhàn.
Nha Mân, 03/2023.
Kinh Vu Lan – Thích Thiện Phước.