Thứ 3, ngày 03 tháng 12 năm 2024
"Mùa báo hiếu ghi công đức mẹ dưỡng cha sinh, Hội Vu Lan nhớ tinh thần thầy tổ truyền dạy" KÍNH MỪNG ĐẠI LỄ VU LAN BÁO HIẾU 2023

Từ đường và tinh thần về nguồn của người Phương Đông.

TỪ ĐƯỜNG VÀ TINH THẦN 

VỀ NGUỒN CỦA NGƯỜI PHƯƠNG ĐÔNG

Thích Thiện Phước

Người tại gia từ trước tới giờ đều thiết lập Từ Đường để tế tự Tổ Tông thân tộc. Trong chùa ngày nay, nơi mà thiết lập bàn thờ để thờ vong linh người tại gia thì cũng là Từ Đường.

“Khổng Tử Toàn Thư” chép: “Người quân tử khi sắp xây dựng nhà cửa, trước hết phải lập Từ Đường ở phía đông phòng chánh, làm 4 cái khám để thờ Thần chủ Tổ tiên đời trước, bài vị của Cao tổ phụ – Ông sơ, Cao tổ mẫu – Bà sơ - để ở 2 bên trái bài vị của Tằng tổ phụ – Ông cố,  Tằng tổ mẫu – Bà  cố – để ở bên phải, bài vị của Tổ phụ – Ông nội, Tổ mẫu – Bà nội -  để ở bên trái,  bài vị của Phụ thân, Mẫu thân để ở bên phải.

Bài vị của Tổ phụ, Tổ mẫu đều hướng về phương nam, Tổ phụ để ở bên trái, Tổ mẫu để ở bên phải.

Sắp xếp chỗ cúng tế, mua sắm đồ cúng, người chủ sáng sớm phải bái yết Tổ Tiên ở trong cửa chánh, khi ra khỏi nhà, trở về nhà đều hướng về Tổ Tiên thỉnh an.

Hinh Tu duong

 Ngày mùng một tháng giêng, tiết Đông Chí, hay ngày mùng một, ngày rằm hằng tháng phải đến tham lễ, ngày lễ tiết ở thế tục thì phải dâng cúng thực phẩm, trong nhà có việc gì thì phải cáo bạch Tổ Tiên. Nếu như ở nhà không có khả năng để sửa sang Từ Đường thì chỉ cần chọn một gian phòng sáng sủa, sạch sẽ để phụng thờ bài vị bốn đời là được. Nếu như không có phòng nào khác, thì có thể ở ngay nơi chánh tẩm mà tế tự.

Chú thích:

Ông sơ, bà sơ : Cao tổ phụ, Cao tổ mẫu.

Chít : Huyền tôn.

Ông cố, bà cố : Tằng tỉ phụ, Tằng tỉ mẫu.

Chắt  : Tằng tôn.

Ông nội, bà nội  : Nội tổ phụ, Nội tổ mẫu.

Cháu nội : Nội tôn.

Ông nội, bà nội chết rồi thì xưng : Nội tổ khảo, Nội tổ tỷ.

Cháu xưng là : Nội tôn.

Cháu nối dòng xưng là : Đích tôn: (Cháu nội).

Ông ngoại, bà ngoại : Ngoại tổ phụ, Ngoại tổ mẫu : (cũng gọi là ngoại công, ngoại bà).

Ông ngoại, bà ngoại chết rồi thì xưng : Ngoại tổ khảo, Ngoại tổ tỷ.

Cháu ngoại : Ngoại tôn.

Ông nội vợ, bà nội vợ : Nhạc tổ phụ, Nhạc tổ mẫu.

Ông nội vợ, bà nội vợ chết rồi thì xưng : Nhạc tổ khảo, Nhạc tổ tỷ.

Cháu nội rể : Tôn nữ tế.

Cha mẹ chết rồi thì xưng : Hiển khảo, Hiển tỷ.

Cha chết rồi thì con tự xưng là : Cô tử (con trai), Cô nữ (con gái).

Mẹ chết rồi thì con tự xưng là : Ai tử (con trai), Ai nữ (con gái).

Cha mẹ đều chết hết thì con tự xưng là : Cô ai tử, cô ai nữ.

Cha ruột : Thân phụ.

Cha ghẻ : Kế phụ.

Cha nuôi : Dưỡng phụ.

Cha đỡ đầu : Nghĩa phụ.

Con trai lớn : Trưởng tử, Trưởng nam.

Con gái lớn : Trưởng nữ.

Con kế : Thứ nam, Thứ nữ.

Con út trai : Quý nam, vãn nam.    

Con  út Gái : Quý nữ, Vãn nữ.

Mẹ ruột : Sinh mẫu, từ mẫu.

Mẹ ghẻ : Kế mẫu: Con của bà vợ nhỏ gọi vợ lớn của cha là Đích mẫu.

Mẹ nuôi : Dưỡng mẫu.

Mẹ có chồng khác : Giá mẫu.

Má nhỏ, tức vợ bé của cha : Thứ mẫu.

Mẹ bị cha từ bỏ : Xuất mẫu.

Bà vú : Nhũ mẫu.

Chú, bác vợ : Thúc nhạc, Bá nhạc.

Cháu rể : Điệt nữ tế.

Chú, bác ruột : Thúc phụ, Bá phụ.

Vợ của chú : Thím, Thẩm.

Cháu của chú và bác : Tự xưng là nội điệt.

Cha chồng : Chương phụ.

Dâu lớn : Trưởng tức.

Dâu thứ : Thứ tức.

Dâu út : Quý tức.

Cha vợ (sống) : Nhạc phụ, (chết) : Ngoại khảo.

Mẹ vợ (sống) : Nhạc mẫu, (chết) : Ngoại tỷ.

Rể : Tế.

Chị, em gái của cha, ta gọi bằng cô : Thân cô.

Ta tự xưng là : Nội điệt.

Chồng của cô : Dượng: Cô trượng, Tôn trượng.

Chồng của dì : Dượng: Di trượng, Biểu trượng.

Cậu, mợ : Cựu phụ, cựu mẫu. Mợ còn gọi là : Câm.

Còn ta tự xưng là : Sanh tôn.

Cậu vợ : Cựu nhạc.

Cháu rể : Sanh tế.

Vợ: Chuyết kinh, vợ chết rồi : Tẩn.

Ta tự xưng : Lương phu, Kiểu châm.

Vợ bé : Thứ thê, Trắc thất.

Vợ lớn : Chánh thất.

Vợ sau (vợ chết rồi cưới vợ khác) : Kế thất.

Anh ruột : Bào huynh.

Em trai : Bào đệ, cũng gọi : Xá đệ.

Em gái : Bào muội, cũng gọi : Xá muội

Chị ruột : Bào tỷ.

Anh rể : Tỷ trượng.

Em rể : Muội trượng.

Anh rể : Tỷ phu.

Em rể : Muội trượng, còn gọi : Khâm đệ.

Chị dâu : Tợ phụ, Tẩu, hoặc tẩu tử.

Em dâu : Đệ phụ, Đệ tức.

Chị chồng : Đại cô.

Em chồng : Tiểu cô.

Anh chồng : Phu huynh : Đại bá.

Em chồng : Phu đệ, Tiểu thúc.

Chị vợ : Đại di.

Em vợ (gái) : Tiểu di tử, Thê muội.

Anh vợ : Thê huynh: Đại cựu : Ngoại huynh.

Em vợ (trai) : Thê đệ, Tiểu cựu tử.

Con gái đã có chồng : Giá nữ.

Con gái chưa có chồng : Sương nữ.

Cha ghẻ, con tự xưng : Chấp tử.

Tớ trai : Nghĩa bộc.

Tớ gái : Nghĩa nô.

Cha chết trước, sau ông nội chết, Tôn con của Trưởng tử đứng để tang gọi là : Đích tôn thừa trọng.

Cha, mẹ chết chưa chôn : Cố phụ, Cố mẫu.

Cha, mẹ chết đã chôn : Hiển khảo, Hiển tỷ

Mới chết : Tử.

Đã chôn : Vong.

Anh em chú bác ruột với cha mình : Đường bá, đường thúc, đường cô.

Mình tự xưng là : Đường tôn.

Anh em bạn với cha mình : Niên bá, quý thúc, lịnh cô.

Mình là cháu, tự xưng là : Thiểm điệt, lịnh điệt.

Chú, bác của cha mình, mình kêu : Tổ bá, tổ túc, tổ cô.

Mình là cháu thì tự xưng là : Vân tôn.

 

◊—————————————————————————

 

 

 

 

Những Bài Viết Liên Quan
490799
Total Visit : 389111