Sau khi Phật chuyển pháp lần đầu cho năm vị Tỳ kheo, Tam Bảo đã đầy đủ, bước đầu hình thành nên hình thức của giáo đoàn. Sau khi nhóm năm người Kiều Trần Như quy y Phật, họ thường theo Phật đi hành hóa ở bờ sông Bát La Ca.
Vào một buổi sáng, lúc Phật đang tản bộ bên bờ sông thì đột nhiên có một chàng thanh niên giống như đang điên loạn chạy đến. Dường như là đang có họa lớn sắp giáng xuống, anh ta hớt hãi la lên rằng: “Tôi thật khổ! Nguy hiểm quá!…”
Phật hiền từ nhìn anh ta và mời anh ta ngồi xuống. Khi đó người thanh niên nhìn thấy dáng vẻ uy nghi của Phật bèn cung kính quỳ trước Ngài và nói: “Ngài có phải là bậc đại giác Phật Đà? Xin Ngài hãy cứu con, con là Da Xá ở thành Thành Ca Thi. Con bị tài sắc, danh vọng của cuộc đời làm cho bất an”.
Da Xá vốn là con trai duy nhất của trưởng giả Câu Lệ Ca ở thành Ca Thi, nhà giàu có nhưng sống lêu lỏng, nhiều ca kỹ. Đêm nọ lúc anh ta tỉnh dậy, nhìn thấy cảnh tượng người nhà và ca kỹ nằm ngổn ngang giống như xác chết vậy, họ nằm ngủ hỗn tạp cùng nhau, những kẻ nam người nữ này thật ô uế, khiến anh ta cảm thấy chán ghét và từ đó khởi lên tuệ tính lương thiện, đồng thời cũng tạo nên sự bất an trong lòng. Phật vỗ về Da Xá và nói: “Này thiện nam tử! Ta quả thật là Phật Đà mà con được biết, con không cần phiền não hay bất an, bởi đó vốn là một thế giới giả tạo, tất cả đều vô thường. Ngay cả thân thể của mình còn không giữ được thì làm sao yêu cầu người khác nghe theo chúng ta chứ. Con hãy buông bỏ tất cả”.
Da Xá nghe Pháp Âm của Phật lại nhìn thấy tướng tốt, nghi dung hiền từ của Ngài, Da Xá liền cảm động đến rơi nước mắt. Anh ta quỳ xuống khẩn thiết bày tỏ cảnh ngộ, xin Phật cho xuất gia.
Phật nói với Da Xá: “Da Xá, con hiện nay nên về nhà không nên để cha mẹ lo âu, mong nhớ, xuất gia không phải là rời xa gia đình mới gọi là xuất gia. Thân tuy xuất gia mà tâm không quên danh và lợi thì làm sao gọi là xuất gia được. Ngược lại, thân tuy đầy trang sức ngọc ngà mà tâm thì thanh khiết, hàng phục được mọi phiền não, oán thù, có thể dùng chân lý giáo hóa chúng sanh thì đó mới gọi là xuất gia”. Vậy con muốn xuất gia như thế nào.
“Phật Đà, con đã hiểu được ý nghĩa của xuất gia, khẩn cầu Phật cho con xuất phiền não gia, làm một người truyền bá chân lý, trở thành đệ tử của Phật Đà vĩ đại.” Da Xá thành khẩn nói.
Phật bèn chấp nhận lời thỉnh cầu của Da Xá, ông chính là vị đệ tử đầu tiên quy y Tam bảo và cũng là vị đệ tử thứ sáu mà Thế Tôn thu nhận.
Còn về ông Câu Lệ Ca tức là cha của Da Xá, vì muốn tìm con nên đã vượt sông tìm đến nơi Phật cư trú. Ông hỏi Phật rằng: “Ngài có thấy con tôi là Da Xá không?”
“Xin hãy ngồi xuống, lát nữa đây ông sẽ thấy con của mình.” Phật đáp.
Từ vẻ uy nghi của Ngài có thể thấy Ngài là bậc Thầy vĩ đại, rồi ông thầm nghĩ: “Ta tin rằng Ngài không nói dối ta”. Câu Lệ Ca Trưởng giả ngồi xuống trước đức Phật. Phật liền khai thị cho ông nhiều giáo Pháp, khiến ông vô cùng cảm động. Khi được biết Phật chính là Thái tử Tất Đạt Đa của nước Ca Tỳ La đã xuất gia và thành đạo đột nhiên Trưởng lão quỳ trước Phật xin quy y. Nguyện lam một người đệ tử tại gia. Đó chính là người đệ tử Phật đầu tiên thọ giới đệ tử Ưu Bà Tắc. Sau đó Trưởng giả nhìn thấy Da Xá, lúc này đã quy y Phật và cũng tán thành việc xuất gia của Da Xá, đồng thời mời Phật đến nhà ông thọ nhận cúng dường. Hôm sau, Phật cùng sáu vị đệ tử đến nhà Da Xá, mẹ của Da Xá cũng xin quy y Phật trở thành vị nữ đệ tử tại gia, sống cuộc đời Phật hóa, và cũng là người đầu tiên thọ giới Ưu Bà Di của Phật.
Về sau 55 người bạn của Da Xá cũng xin quy y Phật, trở thành đệ tử xuất gia, trong số đó có vị đạt được thiền định bậc nhất là Kiều Phạm Ba Đề. Nay đệ tử xuất gia của Phật đã là 60 vị, nhưng vẫn chưa thể coi là giáo đoàn lớn. Phật vì tâm nguyện độ người, mong muốn chúng sanh có thể hưởng được lợi ích từ chánh Pháp, nên đã dặn dò các vị đệ tử đi khắp nơi để truyền giáo. Trước lúc chia tay, Phật nhắc nhở rằng: “Các con hãy y theo giáo pháp phụng hành, nhất định có thể độ chúng sanh thoát khỏi biển khổ sanh tử. Thế gian hiện có vô số chúng sanh ở trong biển khổ đang đợi con thuyền chánh pháp của các con cứu độ. Các con hãy đi vì lợi ích của họ. Vì hạnh phúc cho chúng sanh mà phát nguyện lòng từ hãy đi để hoằng dương chân lý Phật Đà! Các con nên phát huy ánh sáng giáo pháp khiến cuộc sống con người trở nên thanh tịnh thuần khiết”.
“Giờ nầy, ta nay phải đến núi Ca Da, nơi đó có một vị gọi là Ưu Lâu Tần La Ca Diếp, là bậc tiên nhân đang tu khổ hạnh, ông ta tu hành đạo đức cao vời, được nhiều người tôn kính. Rất nhiều tín đồ cho rằng: Nếu được tu hành khổ luyện trong pháp môn của ông ta, thì đó là một vinh hạnh lớn. Ta muốn tới đó để độ ông ấy, bỏ tà quy chánh.” Phật Đà cũng dặn rằng không được phép hai người cùng đi chung một đường, sở dĩ như vậy là vì Phật muốn phân tán chúng Tỳ kheo ra khắp mọi nơi nhằm đạt hiệu quả hoằng hóa, cũng có nghĩa là không thể kết đội mà đi. Sau nầy tập trung lực lượng là vì vào mùa an cư kiết hạ Phật mới cho phép nhiều người cùng ở một nơi. Sau khi dặn dò các vị đệ tử xong, chúng Tỳ kheo lần lượt xuất phát mỗi người một nẻo, bắt đầu cuộc sống tự lợi lợi tha của mình./.
◊-◊————————————————————–◊-◊
NĂM THÁNG DẦN TRÔI
Thích Thiện Phước
Cuộc đời là một hành trình luôn đưa ta về phía trước, không giậm chân tại chỗ, không lùi lại phía sau, từng bước chân trải dài ấy, luôn mang theo: Ước mơ thách thức, hạnh phúc niềm đau, nụ cười tiếng khóc, thất bại thành công, nhục vinh được mất,… có người đạt được đỉnh cao của sự nghiệp một cách mau chóng dễ dàng khi còn rất trẻ, có người lận đận mãi vẫn không thành, có người thì chưa lên đến đài vinh quang thì nhìn lại đã già, hơi tàn sức kiệt, rồi phải chống chọi chịu đựng với bệnh tật, như chờ đợi đến hồi kết thúc một chuyến đi xa…
Ai cũng có một thời vẫy vùng xông pha nơi chân trời góc biển, rồi cũng có lúc phải thu mình bình lặng chốn quê nhà, vui cùng cỏ nội mây ngàn, đếm từng giọt mưa rơi như dòng thời gian của đời người đang trút xuống… trở về sống cho mình, ngồi cắt móng tay, đếm từng hơi thở, soi gương nhìn mặt mình thật kỹ thật lâu, để thấy những nếp nhăn in đậm nét phong trần, thấy mây bay cuối tận chân trời mà lòng đầy xao xuyến, bỗng quên đi bao ký ức về cuộc đời thành bại nhục vinh, đã là lữ khách trần gian thì cái gì là của họ của ta, đến lúc an lòng nhìn lại buông xuôi muôn duyên để nhẹ lòng cho một chuyến đi về…“cô đơn không hẵn một mình, một mình không hẵn cô đơn”, chim hót, lá rơi, bầu trời đầy sao đêm…chỉ một mình ta nhưng ngập tràn hạnh phúc bao la.
Mờ sáng rừng thiền chưa dọi nắng
Đêm về hoa cỏ cũng lặng yên
Từng tiếng chim kêu bình minh dậy
Sương lờ bóng nguyệt giới hương bay.
Thật ra, đời người mau chóng lắm bạn, tất cả mọi chúng ta đều sẽ có ngày ly biệt và đến điểm dừng, đó là ngày mà mình rời xa thế giới nầy, ly biệt người thân thương, mọi thứ mà ta gắn bó trân quí yêu thích rồi cũng phải buông xuôi, ta không giữ mãi những gì mình có được, mất mát, đổi thay, tàn hoại…vì thế gian là vô thường, có một thứ không bao giờ thay đổi, đó là luôn luôn thay đổi, sống ở đời đôi lúc cũng phải tuỳ duyên, thay đổi chính mình cho phù hợp với thời đại hoàn cảnh, nếu ta không thay đổi thì sẽ bị thay thế và lùi về phía sau.
Nếu biết còn vài ngày, vài giờ, vài phút giây nữa để sống, thì bạn sẽ sống như thế nào, và làm gì cho khoảng thời gian còn lại của mình?… Ai nấy đều có nỗi khổ niềm đau, vì vậy cho dù hoàn cảnh nào, ta phải sống tràn ngập tình thương yêu: Bản thân, mọi người và muôn loài, khi tình thương đủ lớn thì cánh cửa khổ đau cũng dần khép lại, xin cho đi tình thương vô hạn bằng nhiều phương diện ở trong đời.
Lạy Phật mong sao cho con và mọi người mọi loài sống an lành tự tại, như cánh hạc tung bay giữa bầu trời cao rộng thênh thang, như những đám mây nhẹ nhàng phiêu bồng cao vút chốn thiên không, như dòng nước thì thầm len lõi xuyên qua mọi ngóc ngách của vũ trụ bao la, thong dong từng bước chân đi ngang cuộc đời một cách an toàn không vướng mắc, như làn gió thổi qua những cánh đồng hoa cỏ, mang theo hương thơm vi diệu lan tỏa khắp mọi chân trời.
Thời gian của kiếp người là một nguồn tài nguyên có giới hạn, không thể tái chế, mua bán, trao đổi, tiền bạc châu báu mất đi hôm nay, ngày mai có thể tìm được, còn thời gian trôi qua rồi, sẽ không bao giờ trở lại. Món quà vô giá này, tạo hóa đã ban cho chúng ta và muôn loài đồng đều như nhau. Mỗi ngày đêm có 24 giờ đồng hồ, nhưng chúng ta sử dụng vào việc gì, đó là chuyện cá nhân của từng người…
Đời người sống vài mươi năm, thật quá ngắn ngủi so với vòng luân hồi vô tận. Mỗi một hành nghiệp của chúng ta, dù tốt hay xấu, đều ẩn tàng lý nhân quả ở đó. Vì vậy, khi được làm thân người, bạn hãy tận dụng cơ hội hiếm có nầy, cố gắng sống nhân từ, đạo đức, chân chánh, trung nghĩa, thanh cao, liêm khiết,… trải lòng yêu thương giúp đỡ mọi người.
Cuộc đời, vốn dĩ có nhiều sự bất an đau khổ, ta nên sống sao cho có ý nghĩa, mang lại niềm vui cho mình và người. Ngày ngày tu nhân tích đức, sớm sớm tinh tấn công phu, cầu mong cho mọi người hết khổ, sống đời an vui hạnh phúc trong cõi phù du mộng ảo nầy.
Tuy nhiên, cuộc đời thật tươi đẹp cho những ai sống chân thật với nó: Và vẫn còn đâu đó những khoảng trời bình yên vô hạn, những đàn cò trắng bay lượn xa xa trên cánh đồng lúa bất tận giữa buổi chiều thu nhạt nắng, những khu rừng nguyên sinh xanh thẳm bao la, những dòng sông tĩnh lặng uốn khúc êm đềm, những chú ong dễ thương chăm chỉ hút mật, những đàn bướm bay chập chờn trong vườn hoa cỏ dại khi bình minh về còn đượm thấm sương đêm….thành trụ hoại không – thế gian vô thường, sanh già bệnh chết – thân người giả tạm, xuân hạ thu đông – năm tháng dần trôi, lá rụng về cội nước chảy ra khơi, an nhiên cho một chuyến đi về,…
Thong dong ở mọi phương trời
Mây bay gió thổi mong đời an yên.
Gót chân thoát tục tuỳ duyên
Lối về hoa cỏ thiên nhiên thanh nhàn.
Nha Mân, 03/2023.
Kinh Vu Lan – Thích Thiện Phước.