Khánh Là một loại nhạc khí trong Phât giáo, thuộc bộ gõ, ban đầu dùng ngọc đá chế thành, hai đầu rũ xuống giống như hình dạng cái bảng, qua quá trình phát triển. Khánh hiện tại có nhiều loại: Ngọc khánh, đồng khánh, thiết khánh, biên khánh, sanh khánh, tụng khánh, ca khánh, đặc khánh,…
Khánh mà trong nhà Phật sử dụng khác với khánh nhạc khí đã được đề cập ở trên. Khánh trong nhà Phật có hình giống như cái bát.
Theo Bộ Khảo Công Ký chép: Tăng khánh có hình như cái bát.
* Đối với Phật giáo Ấn Độ thì khánh có từ thời xa xưa.
Loại nhạc khí nầy được nhân loại phát minh rất sớm, nhân vì có rất nhiều chất liệu để làm như: đá, ngọc, vàng,… do đó lúc đánh thì phát ra những âm thanh bất đồng…
Kinh chép: Trong Tịnh xá Kỳ Hoàn phát hiện cái khánh bằng đồng, dung lượng có thể đựng năm thăng, bốn bên khánh đều là vàng ròng, chạm trổ hình Phật và các đệ tử thời quá khứ, có chín rồng, và hình trời người cầm chày ngọc, khi đánh khánh phát tiếng kêu vang cả ba ngàn thế giới.
Trong Từ Nguyên chép: Khánh là một loại nhạc khí, làm bằng đá, bằng ngọc, bằng đồng, do âm thanh hình dáng đặc biệt nên hàm chứa ý nghĩa trang nghiêm kính cẩn thanh tịnh siêu thoát, vì vậy trong Phật giáo chọn làm pháp khí. Khánh là một trong các loại nhạc khí sử dụng trong các pháp hội, có dáng giống như hình chữ nhật.
Khánh ở Trung Quốc có nguồn gốc từ thời Nghiêu Thuấn, nó là một loại nhạc khí rất quan trọng. Khánh thời bây giờ là dùng ngọc hoặc đá mài thành, một vài loại đá ở Trung Quốc là Tứ Thủy (nay thuộc tỉnh Sơn Đông), lấy từ trong núi sâu, màu nó giống như cây sơn, có rất nhiều đường vằn nhỏ giống y như ngọc, cũng có khi dùng đá Thái Hồ chế thành nhưng chất lượng thì không bền và đẹp bằng ngọc đá Tứ Thủy.
Theo Văn Hiến Thông Khảo: Đến thời Nam Tề mới có khánh bằng sắt, lại đến đời Trần mới đúc khánh bằng đồng.
* Khánh có thể dùng chất liệu bất đồng chế thành:
Thời kỳ đầu là dùng ngọc và đá, cách chế tạo khánh là đem khối đá cưa thành hình chữ nhật, mài ở giữa uốn cong 2 đầu thấp xuống. Do vì độ dày và lớn nhỏ bất đồng cho nên khi đánh âm luật cũng bất đồng. Về sau mới xuất hiện khánh bằng sắt, bằng đồng, hình dạng có nhiều biến hóa như hình đám mây, hình cái bát,… Hiện tại trong Tự viện Phật giáo dùng khánh phần nhiều là bằng sắt hoặc bằng đồng, còn dùng ngọc, đá phần nhiều là khánh dẹp.
Ví như phương pháp chế tạo biên khánh là dùng 16 miếng đá rồi căn cứ theo thứ tự âm luật, sau đó xếp thành hàng ngang để gõ.
Lại có một loại nhạc khí gọi là “Phương hưởng”. Nó là một loại dụng phẩm thay thế cho khánh, dùng 16 miếng sắt có hình dẹp vuông xếp theo thứ tự mà thành.
Các loại khánh đã được trình bày trên, đều treo ở giá chung khánh, làm nhạc khí để gõ. Trên bán đảo Triều Tiên đến nay còn có lưu truyền sử dụng loại “phương hưởng” của “biên khánh, đặc khánh”. Tại chùa Nại Lương Hưng Phước nước Nhật có một “Hoa Nguyên Khánh”, đây là một loại cổ vật. Xét về hình dạng thì thuộc một loại chiêng trống.
“Tăng khánh” trong Phật giáo và những loại “nhạc khí khánh” được nêu trên đều không giống nhau. Khánh trong Phật giáo là hình cái bát.
Theo Thiền Lâm Tượng Khí Tiên “Bái Khí Môn” chép: Tăng khánh và nhạc khí khánh, hình dạng hoàn toàn khác biệt. Nhạc khí khánh hình như tấm bảng mài cong, y hệt như nửa hình chữ nhật. Còn Tăng khánh là hình như cái bát.
Kỳ Viên Đồ Kinh chép : “Khánh có thể đựng 5 thăng, qua đó cho ta thấy khánh ở Thiên Trúc có hình dạng như cái bát ở đây vậy”.
Lại nữa, trong Thạch Hồ Mai Phổ, lấy phân nửa hoa mai búp để ví dụ cho Tăng khánh. Như vậy, ta cũng đủ biết hình dáng của Tăng khánh trong Phật giáo Bắc truyền rồi vậy.
* Các loại khánh:
Trong Tự viện Phật giáo Trung Quốc từ thời Nam Bắc Triều đến triều đại nhà Đường, đa phần là sử dụng khánh dẹp truyền thống, nhưng từ thời Ngũ Đại đến Bắc Tống thì mới xuất hiện khánh tròn như ngày nay.
Hiện tại trong Tự viện sử dụng khánh có ba loại:
- Khánh tròn: Hình như cái bát, phần nhiều được dùng đồng sắt đúc thành. Khánh tròn để ở phía Đông của chánh điện, khi cử hành pháp hội, hoặc thời khóa tụng niệm thì thầy Duy na đánh, khánh tròn có hai loại lớn nhỏ khác nhau.
- Khánh dẹp: Hình như vân bảng, phần nhiều dùng đá hoặc kim loại làm thành. Khánh dẹp thường treo ở ngoài hành lang phương trượng, dùng để đánh khi có việc cần thông báo.
- Khánh tay: Lại gọi là dẫn khánh, hình bán cầu, dùng đồng đúc thành, ở dưới đáy có khoan lỗ gắn cán bằng đồng hoặc bằng gỗ dùng thanh bằng đồng hoặc bằng sắt để gõ.
Trong Kinh Phật dạy: “Tiểu khánh to như trái đào, dưới đáy có khoét lỗ tra nhánh trúc nhỏ làm cán, dùng dùi sắt nhỏ đánh, vì để dẫn chúng tụng niệm hành lễ nên gọi là dẫn khánh”.
Công dụng của khánh:
Khánh tròn Đối với người Việt ta gọi là cái Chuông gia trì, có hình dạng giống như cái bát, phần nhiều làm bằng đồng, sắt, dùng kim loại đúc thành, kích cỡ cũng bất đồng.
Sử dụng trong lúc Tăng chúng tán tụng. Bách Trượng Thanh Qui Pháp Khí Chương chép: “Khánh, lúc sớm tối Trụ trì, Tri sự hành hương trên đại điện, lúc đại chúng tụng kinh chú, thì người trực chánh điện đánh, lúc làm lễ xướng y thì Duy na đánh, hành giả cạo tóc đắp y thì vị Xà Lê đọc bằng tiếng Phạn đánh.
Khánh dẹp Chủ yếu là để báo tin, như có khách đến thăm, thì đánh ba tiếng, như báo tang thì đánh bốn tiếng.
Dẫn khánh Thiền Lâm Tượng Khí Tiên chép: Khánh nhỏ lớn như trái đào, ở dưới đáy có khoét lỗ tra cán, rồi dùng 1 cục sắt nhỏ mà đánh, đó gọi là dẫn khánh. Bởi vì đây là hiệu lệnh dẫn chúng cho nên có tên như thế. Hiện tại dẫn khánh được sử dụng trong Tự viện, đều dùng chất liệu bằng đồng, hình dạng như quả chuông nhỏ, trên đảnh có nhô lên một quả gù to, có tra thêm cán, dùng tay cầm khi lễ Phật tụng kinh đều đánh nó. Vì để làm tiết tấu dừng hay bắt đầu, đây là một nhạc khí dùng trong các pháp sự. Tăng sĩ Tịnh Độ thông thường dùng để niệm danh hiệu Phật hoặc đánh để nhiễu Phật, nhằm cho thanh điệu của đại chúng điều hòa, thống nhất. Trong các hoạt động pháp sự xướng niệm cũng sử dụng nó, có khi dùng làm hiệu lệnh để lạy Phật cho đều, dẫn khởi đại chúng chú ý, hoặc chỉ huy hành động đại chúng. Khi đánh dẫn khánh, phần nhiều là để vấn tấn, chuyển thân, lễ bái và các trường hợp hoạt động khác.
Tự viện Trung Quốc từ đời Đường trở về trước, khánh sử dụng theo truyền thống là dùng khánh dẹp, từ thời Ngũ Đại trở về sau xuất hiện khánh tròn. Trong Tự viện ngày nay đều thấy sử dụng khánh tròn, dùng đồng để chế thành như cái bát để ở phía đông trong điện Phật, sáng sớm chiều tối tụng kinh hoặc cử hành các pháp hội thì đây là loại pháp khí mà Thầy Duy na sử dụng. Dùng nó để khống chế điều tiết thanh điệu, đa phần là cử xướng, ngưng, chấp tay, buông tay, danh hiệu Phật,… đều đánh lên.
Khi Phương trượng, cao Tăng thăng tòa, lúc thuyết pháp, thì dẫn khánh đánh lên và đi trước.
Bách Trượng Thanh Qui, Pháp Khí Chương chép: “Khánh cầm tay hình dáng nhỏ, Đường Ty hành giả thường mang theo bên mình, gặp lúc chúng Tăng tụng kinh thì theo tiết tấu mà đánh hoặc dừng. Dẫn khánh là loại cầm để đánh. Mỗi khi gặp tín đồ vào chùa thắp hương lễ Phật, chư Tăng thường đánh khánh, vì nó có âm điệu trong trẻo hòa nhã khiến lòng người kính ngưỡng”.
Đây là một pháp khí quan trọng do Duy na hoặc Duyệt chúng chấp lệnh, để ra hiệu cho đại chúng vân tập tiến thoái và đánh nhịp hướng dẫn đại chúng trong khi tán tụng.
Trong những Tự viện lớn, trong đại Tòng lâm, Duy na sử dụng đại khánh – chuông gia trì, Duyệt chúng cầm dẫn khánh – riêng ở Việt Nam ta thì duyệt chúng đánh mõ. Lúc trên chánh điện Duyệt chúng đứng đối diện với Duy na. Duyệt chúng đợi Duy na khởi xướng, Duyệt chúng ứng tiếp, Duy na chuyển giọng, Duyệt chúng chuyển giọng theo. Mọi người phải đọc rõ ràng, nhằm đề phòng ngừa đại chúng có giọng cao thấp mất đi chuẩn tắc, chênh lệch không đồng.
Đánh đại khánh phần nhiều là đánh lúc cất giọng xướng, dừng giọng, chắp tay, buông tay, cho đến danh hiệu Phật,…
Dẫn khánh dùng để vấn tấn, chuyển thân, lễ bái, cho đến những trường hợp khác như công phu chiều thời khóa Mông Sơn.
Đại khánh dùng để điều tiết khi đọc kinh, dẫn khánh thì dùng để hướng dẫn những động tác. Đại khánh có tác dụng làm phấn chấn tinh thần. Ngoài ra dẫn khánh còn phối hợp với tang, cáp, linh, trống, mõ, tạo nên một tiết tấu âm nhạc rất hay.
Trong các Tự viện nhỏ hoặc đạo tràng ít người thì Duy na, Duyệt chúng, 2 chức vị này do một người đảm nhiệm, vừa đánh đại khánh và vừa đánh dẫn khánh, mõ.
Đại khánh và tiểu khánh, ngoài thời khóa thường ngày ra, trong các pháp hội, khánh chúc, tiêu tai, độ vong,… đều cần phải có, lại có rất nhiều nghi tiết khác cũng cần dùng đến các loại pháp khí này.
Theo “Phật Giáo Nghi Thức Tu Tri” do Thượng Hải Thế giới Phật giáo cư sĩ Lâm biên tập, chép rằng: “Viên khánh là do Duy na sử dụng khi tụng niệm. Trụ trì, tôn túc, quan liêu, thí chủ, những người hộ trì chánh pháp,… đến chùa lễ Phật đều đánh 3 tiếng. Biển khánh dùng đá để làm, hình dạng giống như vân bảng treo ở ngoài phương trượng; hoặc có khách đến thăm Trụ trì, thì Tri khách đánh 3 tiếng”.
Lại nữa “Tiểu thủ khánh”, lễ Phật tụng kinh đều phải đánh hoặc khởi hoặc dứt.
Theo Pháp Khí Chương chép: “Khánh là hai thời sám hối trên đại điện, Trụ trì, Tri sự khi hành hương, đại chúng tụng kinh chú do người trực điện đánh. Khi xướng tụng thì Duy na đánh, hành giả đắp y cạo tóc thì Xà lê đánh”.
Khánh là một loại khí vật quan trọng, trong Kỳ Viên Đồ kinh chép: “Nơi Phật y phục viện, A Nan thường ở đó để giữ gìn y Phật, có một khánh bằng đồng đựng được 10 thăng. Xung quanh khánh có dùng vàng ròng để khắc hình đệ tử Phật thời quá khứ”. Lại nữa, trên cái quai khắc hình 9 con rồng, trên lưng rồng có hình Trời người đứng, cầm chày ngọc để đánh khánh. Tiếng nghe vang rền khắp 3000 thế giới, trong âm thanh ấy phát ra lời chư Phật giáo giới cho các đệ tử. Khánh là do Phạm Vương làm ra, sau khi Phật diệt độ, Ta Kiệt La Long Vương lấy đem về tàng trữ trong biển.
Chính vì khánh có năng lực như thế nên trong Tự viên cần phải có. Đối với Phật Giáo Việt Nam khánh còn gọi là chuông gia trì, sử dụng lúc đọc kinh, điều hòa tiết tấu âm điệu, hoặc đánh lên mỗi khi có thí chủ vào chùa lễ Phật, chư Tăng đang hành lễ thì lâu lâu đại khánh được đánh lên, nhằm cảnh tỉnh đại chúng, trở về với thực tại sâu xa.
◊-◊————————————————————————–◊-◊
THÍCH THỊ PHƯỚC
Từ đó, nguồn cội yêu thương hiếu đạo đã được khơi dậy một cách mạnh mẽ, nên rằm tháng bảy trở thành một lễ hội truyền thống tri ân cao quý của Phật giáo: Tết trung nguyên, rằm tháng bảy, địa quan xá tội, Mục liên cứu mẹ, lễ tự tứ,…Đây là ngày lễ truyền thống của đạo lý Việt Nam, dạy cho mọi người xóa bỏ hận thù, biết làm mới với tinh thần “Xá Tội – tha thứ những lỗi lầm”.
Con quỳ lạy Phật Thích Ca
Chứng minh đệ tử tên là Mục Liên
Lòng con mộ đạo tu hiền
Xuất gia theo Phật cầu nguyền hôm nay.
Nghe kinh Phật thuyết bảy ngày
Minh tâm kiến tánh như lai trọn lành
Lục thông đầy đủ nên danh
Muốn tìm Cha Mẹ lòng thành gắng công.
Đền ơn cho bú ẵm bồng
Liền dùng đạo nhãn xem liền thế gian
Thấy vong Mẹ khổ muôn vàn
Ốm gầy đói khát trong đàng quỷ ma.
Mục Liên kêu Mẹ khóc la
Đau lòng thương Mẹ đọa sa Diêm đình
Thanh Đề nhìn thấy con mình
Mục Liên cứu Mẹ hết tình gắng công.
Con ơi! Mẹ đói trong lòng
Mục Liên nghe nói khóc ròng thở than
Vội vàng trở lại thế gian
Bới cơm một bát đem sang Mẹ mừng.
Và cơm vô miệng nửa chừng
Chén cơm hóa lửa phừng phừng thành than
Mục Liên xem thấy kinh hoàng
Trong lòng đau đớn khóc than buồn tình.
Mẹ ơi! Niệm Phật độ mình
Trở về lạy phật cầu xin Mẹ già
Thích Ca Đức Phật phân qua
Mẹ ngươi tội nặng đọa ra nghiệp hành.
Ta truyền cứu tế pháp lành
Cần cầu Tăng chúng tịnh thanh chú nguyền
Cầu cho Phụ Mẫu hiện tiền
Lục thân quyến thuộc bình yên đều hòa.
Bảy đời Phụ Mẫu đã qua
Về Trời hưởng phước sáng lòa hào quang
Vui chơi thong thả thanh nhàn
Ngày rằm tháng Bảy lập đàn trai tăng.
Sắm cơm trăm món đồ ăn
Trái cây ngũ quả hương đăng rõ ràng
Chiếu, giường, bồn nước, mùng, màn
Dầu, đường, trà lá, bát vàng đựng cơm.
Những đồ vật quý bông thơm
Thành tâm dọn tiệc Lan Bồn phân minh
Cúng dường Tam Bảo cầu Kinh
Chư Tăng tịnh giới giữ gìn nghiêm trang.
Cầu cho Thí chủ Trai đàn
Tâm hành thiền định vái van chúc nguyền
Thanh Đề khổ ách hết liền
Ngày rằm tháng Bảy thành tiên về Trời.
Noi gương hiếu thảo đời đời,
Xót thương Phụ Mẫu hiện thời nuôi con.
Nhai cơm cho bú hao mòn
Ơn sâu nghĩa nặng thương con hết lòng.
Trời cao đất rộng mênh mông
Biển hồ lai láng sánh đồng Thái sơn
Tu hành báo tứ trọng ân
Độ đời ba cõi sạch trơn trọn lành.
Mục Liên đại hiếu tu hành
Báo ân Phụ Mẫu nên danh độ đời.
Câu chuyện của hai đóa hồng trong đêm trước ngày Vu Lan. Đó là Hồng Nhung đỏ Giảm và Hồng trắng tinh khôi.
Ngày lễ Vu La n người ta cài lên cánh mình đóa Hồng Nhung nếu họ may mắn còn có mẹ, người mất mẹ cài đóa Hồng trắng cho mình.
Đêm tháng 7 Âm lịch. Ngày trăng thứ 14 đủ tròn và sáng để chiếu lên vạn vật. Vườn hồng nằm dưới ánh trăng vàng dịu dàng. Tia sương của đêm đọng lại lá, lên những cánh hồng. Những đóa hồng tỏa mùi thơm khắp không gian về đêm. Chỉ còn đêm nay nữa thôi, sáng mai sớm hết những thứ đóa hồng này sẽ được ngắt, để người đời dùng chúng thay cho lời tri ân với mẹ! Ngày Lễ Vu Lan.
Hồng Trắng được trồng cạnh Hồng Nhung. Hồng Trắng say sưa tận hưởng cái lạnh của sương, uống lấy từng giọt sương để khiến mình có thể rực rỡ nhất vào ngày mai. Đóa Hồng Nhung nhìn bạn đang cố gắng hết sức có thể để tăng nhựa sống cho mình, Hồng Nhung rụt rè nói với bạn:
– Hồng Trắng ơi, mai là ngày lễ Vu lan rồi, cậu có buồn không?
– Tại sao lại buồn chứ?
Gương mặt Hồng Trắng vẫn tươi tắn lạ thường. Hồng Nhung khẽ khàng:
– Tớ không biết vì sao trong ngày lễ Vu lan con người lại dùng tớ, một loài hoa hồng mang màu đỏ để dành cho những người còn mẹ trên đời. Còn cậu – loài hoa hồng trắng luôn phải dành cho những người đã mất mẹ. Có khi nào cậu thấy buồn không?
– Không đâu, tớ không phải là đại diện cho sự bất hạnh của những người mất mẹ, tớ thay họ nói lên tình yêu vô bờ bến mà họ dành cho mẹ. Họ dùng tớ để thay lời cảm ơn và thể hiện lòng kính yêu với mẹ, ngay cả khi mẹ không còn trên thế gian này nữa. Được cài trước lồng ngực của những người mất mẹ, tớ nghe được tiếng thổn thức, một nỗi xót xa trào dâng qua từng nhịp đập của con tim.
- Nhưng những người còn mẹ sẽ vui vẻ hơn những người mất mẹ vì vậy nếu được chọn cài lên ngực những người còn mẹ sẽ hạnh phúc hơn rất nhiều phải không nào? Hồng Nhung gặng hỏi bạn.
- Tôi nghĩ đến tớ khi nằm trên thăng của người khác, những người may mắn còn mẹ sẽ hiểu họ cần phải làm gì xứng đáng với ân huệ mà cuộc đời còn dành cho họ. Họ cần phải có nhiều hơn để đến một ngày nào đó khi phải cài đặt lên vũ khí, họ không cảm thấy ân hận vì mình đã không làm một người tốt. Tôi hạnh phúc khi nói thay tình yêu của những người mất mẹ và nuôi dưỡng tới những người còn mẹ. Tôi đã làm giả sứ của tình nguyên tử quý giá.
Hồng Nhung nhìn Hồng ngưỡng ngưỡng. Cả hai yên lặng hút dưỡng dưỡng từ đất và uống sương đêm để mình đẹp hơn vào ngày mai.
(Diệu Bạch St)
◊-◊—————————————– ———————-◊-◊
NĂM THÁNG DẦN TRÔINĂM THÁNG DẦN TRÔI
Thích Thiện Phước
Cuộc đời là một hành trình luôn đưa ta về phía trước, không giậm chân tại chỗ, không lùi lại phía sau, từng bước chân trải dài ấy, luôn mang theo: Ước mơ thách thức, hạnh phúc niềm đau, nụ cười tiếng khóc, thất bại thành công, nhục vinh được mất,… có người đạt được đỉnh cao của sự nghiệp một cách mau chóng dễ dàng khi còn rất trẻ, có người lận đận mãi vẫn không thành, có người thì chưa lên đến đài vinh quang thì nhìn lại đã già, hơi tàn sức kiệt, rồi phải chống chọi chịu đựng với bệnh tật, như chờ đợi đến hồi kết thúc một chuyến đi xa…
Ai cũng có một thời vẫy vùng xông pha nơi chân trời góc biển, rồi cũng có lúc phải thu mình bình lặng chốn quê nhà, vui cùng cỏ nội mây ngàn, đếm từng giọt mưa rơi như dòng thời gian của đời người đang trút xuống… trở về sống cho mình, ngồi cắt móng tay, đếm từng hơi thở, soi gương nhìn mặt mình thật kỹ thật lâu, để thấy những nếp nhăn in đậm nét phong trần, thấy mây bay cuối tận chân trời mà lòng đầy xao xuyến, bỗng quên đi bao ký ức về cuộc đời thành bại nhục vinh, đã là lữ khách trần gian thì cái gì là của họ của ta, đến lúc an lòng nhìn lại buông xuôi muôn duyên để nhẹ lòng cho một chuyến đi về…“cô đơn không hẵn một mình, một mình không hẵn cô đơn”, chim hót, lá rơi, bầu trời đầy sao đêm…chỉ một mình ta nhưng ngập tràn hạnh phúc bao la.
Mờ sáng rừng thiền chưa dọi nắng
Đêm về hoa cỏ cũng lặng yên
Từng tiếng chim kêu bình minh dậy
Sương lờ bóng nguyệt giới hương bay.
Thật ra, đời người mau chóng lắm bạn, tất cả mọi chúng ta đều sẽ có ngày ly biệt và đến điểm dừng, đó là ngày mà mình rời xa thế giới nầy, ly biệt người thân thương, mọi thứ mà ta gắn bó trân quí yêu thích rồi cũng phải buông xuôi, ta không giữ mãi những gì mình có được, mất mát, đổi thay, tàn hoại…vì thế gian là vô thường, có một thứ không bao giờ thay đổi, đó là luôn luôn thay đổi, sống ở đời đôi lúc cũng phải tuỳ duyên, thay đổi chính mình cho phù hợp với thời đại hoàn cảnh, nếu ta không thay đổi thì sẽ bị thay thế và lùi về phía sau.
Nếu biết còn vài ngày, vài giờ, vài phút giây nữa để sống, thì bạn sẽ sống như thế nào, và làm gì cho khoảng thời gian còn lại của mình?… Ai nấy đều có nỗi khổ niềm đau, vì vậy cho dù hoàn cảnh nào, ta phải sống tràn ngập tình thương yêu: Bản thân, mọi người và muôn loài, khi tình thương đủ lớn thì cánh cửa khổ đau cũng dần khép lại, xin cho đi tình thương vô hạn bằng nhiều phương diện ở trong đời.
Lạy Phật mong sao cho con và mọi người mọi loài sống an lành tự tại, như cánh hạc tung bay giữa bầu trời cao rộng thênh thang, như những đám mây nhẹ nhàng phiêu bồng cao vút chốn thiên không, như dòng nước thì thầm len lõi xuyên qua mọi ngóc ngách của vũ trụ bao la, thong dong từng bước chân đi ngang cuộc đời một cách an toàn không vướng mắc, như làn gió thổi qua những cánh đồng hoa cỏ, mang theo hương thơm vi diệu lan tỏa khắp mọi chân trời.
Thời gian của kiếp người là một nguồn tài nguyên có giới hạn, không thể tái chế, mua bán, trao đổi, tiền bạc châu báu mất đi hôm nay, ngày mai có thể tìm được, còn thời gian trôi qua rồi, sẽ không bao giờ trở lại. Món quà vô giá này, tạo hóa đã ban cho chúng ta và muôn loài đồng đều như nhau. Mỗi ngày đêm có 24 giờ đồng hồ, nhưng chúng ta sử dụng vào việc gì, đó là chuyện cá nhân của từng người…
Đời người sống vài mươi năm, thật quá ngắn ngủi so với vòng luân hồi vô tận. Mỗi một hành nghiệp của chúng ta, dù tốt hay xấu, đều ẩn tàng lý nhân quả ở đó. Vì vậy, khi được làm thân người, bạn hãy tận dụng cơ hội hiếm có nầy, cố gắng sống nhân từ, đạo đức, chân chánh, trung nghĩa, thanh cao, liêm khiết,… trải lòng yêu thương giúp đỡ mọi người.
Cuộc đời, vốn dĩ có nhiều sự bất an đau khổ, ta nên sống sao cho có ý nghĩa, mang lại niềm vui cho mình và người. Ngày ngày tu nhân tích đức, sớm sớm tinh tấn công phu, cầu mong cho mọi người hết khổ, sống đời an vui hạnh phúc trong cõi phù du mộng ảo nầy.
Tuy nhiên, cuộc đời thật tươi đẹp cho những ai sống chân thật với nó: Và vẫn còn đâu đó những khoảng trời bình yên vô hạn, những đàn cò trắng bay lượn xa xa trên cánh đồng lúa bất tận giữa buổi chiều thu nhạt nắng, những khu rừng nguyên sinh xanh thẳm bao la, những dòng sông tĩnh lặng uốn khúc êm đềm, những chú ong dễ thương chăm chỉ hút mật, những đàn bướm bay chập chờn trong vườn hoa cỏ dại khi bình minh về còn đượm thấm sương đêm….thành trụ hoại không – thế gian vô thường, sanh già bệnh chết – thân người giả tạm, xuân hạ thu đông – năm tháng dần trôi, lá rụng về cội nước chảy ra khơi, an nhiên cho một chuyến đi về,…
Thong dong ở mọi phương trời
Mây bay gió thổi mong đời an yên.
Gót chân thoát tục tuỳ duyên
Lối về hoa cỏ thiên nhiên thanh nhàn.
Nha Mân, 03/2023.
Kinh Vu Lan – Thích Thiện Phước.