Linh đạc còn gọi là: Thủ đạc, thủ linh, bảo đạc, phong đạc, liêm đạc, là tên của một loại nhạc khí thuộc bộ gõ tự thân vang theo trường canh đều. Những loại linh đạc này đều thuộc về chủng loại linh.
Nguồn gốc của linh đạc, thông thường cho là ban đầu được lưu hành ở Ấn Độ. Thuyết này trong kinh điển Phật giáo có chứng cứ rõ ràng.
Kinh Đại Bát Nhã chép: “Hoa trời che mát, linh báu phan châu, lụa là gấm vóc, trông thật đáng ưa”.
Lại có kinh chép: “Linh đạc phan lụa, gió nhẹ thổi reo”.
Bảo Khiếp Ấn Đà La Ni Kinh chép: “Pháp ấy chính là do bảy báu làm thành, thềm bậc trên dưới, lộ ra tán cái, linh đạc cửa sổ thuần bằng đồ thất bảo”.
Những chứng cứ trên cho ta thấy linh đạc thuở ban đầu là xuất hiện ở Ấn Độ.
Trong điển tịch Phật giáo Ấn Độ, có đoạn nổi tiếng là: “Phong linh đối thoại”, bàn luận về cái nghe và tâm có liên hệ với nhau.
Có lần Tổ thứ 17 ở Tây Vực là Già Da Nan Đề cùng với Già Da Xá Đa nghe tiếng phong linh.
Già Da Xá Đa hỏi: “Là tiếng linh ư? Là tiếng gió ư?”.
Già Da Nan Đề đáp: “Chẳng phải gió cũng chẳng phải linh, là tiếng của tâm ông”.
Đoạn đối thoại nầy, nói rõ kiến giải bất đồng về sự vật, mà sự vật được mượn để nói ở đây là Linh đạc.
* Cách chế tạo và chủng loại linh đạc:
Hình dạng linh đạc thì bất nhất, giống như quả chung, trên đảnh có cán, được chế tạo bằng chất liệu vàng, đồng, sắt,… có 5 loại: Linh 1 cổ, linh 3 cổ, linh 5 cổ, bảo linh, tháp linh – Suất Đô Bà Linh, 5 loại linh nầy kết hợp với 5 loại xử để cố định trên đại đàn. Con số 5 là tượng trưng cho 5 trí, 5 Phật, linh là biểu đạt sự thuyết pháp.
Lúc tu pháp mật giáo, vì để tỉnh giác các tôn hoặc khiến cho hoan hỉ thì liền rung linh phát ra tiếng.
Linh có 3 ý nghĩa: Sự tỉnh giác, hoan hỉ, thuyết pháp. Rung linh cúng dường chư tôn gọi là chấn linh. Nhân vì cán linh là một bộ phận của chày kim cang, cho nên gọi là Kim cang linh.
Trong kinh điển thường nêu ra linh đạc. Hơn nữa Quan Âm 1000 tay, và thánh tượng Di Lặc 30 tay, trong đó có một cánh tay cầm bảo linh, cho nên mới nói linh đạc xuất hiện rất sớm ở Ấn Độ.
* Linh đạc là Pháp khí thường dùng trong Phật giáo:
Trong Tự viện Phật giáo, linh đạc chủ yếu là để dẫn hồn, lễ sám, tán bái, niệm tụng, vì thanh điệu réo rắc trang nghiêm.
Vào Triều đại nhà Đường, Ngũ Đại và Nam Bắc Tống thì thân của Kim Cang linh được dùng làm Pháp khí, tức là bộ phận chánh của linh thì đúc hình Tứ Thiên Vương, Phạm thiên, Đế Thích Thiên, cho đến Minh Vương và được gọi là “Phật tượng linh”, hình thái linh nầy rất thạnh hành.
Trong Tự viện thời hiện tại, linh đạc chủ yếu là loại linh cầm tay để lắc thường được thấy sử dụng trong đàn tràng Du Già Diệm Khẩu Thí Thực.
Trong Tự viện Hán truyền, tiếng linh được sử dụng trong lúc tán tụng lễ sám làm tăng thêm sự trang trọng của Pháp hội.
Thủ đạc là loại có cán để cầm, bên trong có lưỡi, khi rung thì phát ra tiếng. Cán của nó có loại một cổ cho đến 5 cổ, hình dạng na ná như cây xử, cho nên có khi gọi là linh xử, đó chính là bái khí của Chơn Ngôn tông và Thiên Thai tông sử dụng.
Linh đạc ngoài loại cầm tay để lắc, còn có loại treo ở tháp, hoặc treo trên mái chùa gọi là đại linh.
Chu Lễ Trịnh Huyền chú: “Đạc là loại linh lớn vậy. Ngoài ra linh có thể làm vật trang nghiêm trong tự viện, treo ở hành lang dưới diềm góc mái chùa tháp, vì gió thổi rung lên những tiếng leng keng nên gọi là phong linh, và cũng là một loại linh đạc”.
Nếu đem 3 loại: Linh 1 cổ, linh 3 cổ, linh 5 cổ để ở trên đảnh tháp có hình bảo châu thì gọi là tháp linh hoặc bảo linh.
Lạc Dương Già Lam Ký chép: “Khi mặt trời mới mọc, ánh sáng rực rỡ, gió nhẹ vừa thổi thì linh báu kêu vang”.
Đây là miêu tả âm vận của “phong đạc”.
Ngoài ra, chùa chiền mà treo phong đạc, thì tăng thêm nét cổ kính trang nghiêm.
* Công dụng của linh đạc:
Là loại trang nghiêm cụ, linh đạc có thể treo ở trước Phật tượng, bảo trướng. Khế kinh chép: “Cúng linh đạc ở nơi Tháp miếu, đời đời được âm thanh trong trẻo”.
Thích Môn Quy Kính Nghi chép: “Âm giọng hay có thể làm cho tâm chinh chiến tiêu trừ, quân và ngựa không thể đi được nữa, là do đời trước cúng dường linh”.
Đây là chép lại câu chuyện Bái Tỳ kheo, do vì nhiều đời về trước từng cúng dường linh đạc treo ở dưới diềm tháp, nhân thế mà đời đời âm thanh trong trẻo, cảm động đến loài cầm thú:
Có lần, vua Ba Tư Nặc thống lãnh một đội quân đi ngang qua đạo tràng giảng kinh của Phật. Vì nghe được giọng tụng kinh thật hay của một thầy sa môn là Bái Tỳ kheo, nên ông ta xuống ngựa và đi đến thỉnh giáo Đức Phật.
Sau khi đảnh lễ Đức Thế Tôn, vua Ba Tư Nặc bạch với Đức Phật rằng: “Giả như Ngài có thể thỉnh vị Tăng tụng kinh ấy đến để con chiêm ngưỡng dung nhan một lần thì con sẽ cúng dường 10 vạn quan tiền”.
Đức Thế Tôn nói: “Vậy ông hãy cúng dường 10 vạn quan tiền trước đi rồi ta mời vị Tăng ấy đến cho ông gặp. Nếu đợi sau khi nhìn vị ấy thì chắc chắn ông sẽ không còn lòng dạ nào để cúng dường nữa đâu!”.
Vua Ba Tư Nặc sau khi nghe Đức Thế Tôn nói vậy, đành phải bố thí 10 vạn quan tiền trước, để cúng dường Tăng bảo.
Sau khi nhà vua gặp được vị Tăng ấy thì trong lòng rất thất vọng. Vua nói: “Thật không ngờ vị Tăng có chất giọng trong trẻo và ngọt ngào ấy lại là một người thấp bé như thế này, mặt mày cũng thật khó coi!”.
Nhà vua hỏi: “Vì sao lại có duyên cớ ấy, bạch Đức Thế Tôn?”.
Đức Phật đáp: “Thuở xưa, có một vị thánh nhân tên là Ca Diếp Phật. Ngay sau khi vị ấy viên tịch, quốc vương vì vị thánh nhân đó mà xây dựng một ngôi tháp rất lớn. Quốc vương mới sai bốn vị đại thần trông coi công việc xây dựng, nhưng trong đó có một vị đại thần rất biếng nhác. Sau khi vua biết được, bèn khiển trách ông ta.
Vị đại thần ấy nổi sân, nói: “Ngôi tháp này thật là đồ sộ, làm biết chừng nào mới xong?”.
Sau khi xây dựng hoàn thành, vị đại thần nhìn thấy ngọn tháp rất trang nghiêm. Thế là ông phát tâm cúng một cái linh báu để treo ở trên tháp. Do tật lười biếng và phát ngôn một cách tùy tiện, cho nên trong 500 đời, thân hình ông đều rất lùn xấu. Lại vì ông cúng một cái linh báu để ở trên tháp, cho nên trong 500 đời, ông đều có âm giọng rất trong trẻo làm cho người nghe mê tai.
Thế mới biết, chúng ta phải sáng suốt để giữ gìn ba nghiệp của mình, không nên phê bình người khác, khi làm bất kỳ việc lành gì, cũng không nên nói láp dáp, hay thốt ra lời oán trách, để mình khỏi phải lãnh lấy quả báo xấu sau này vậy!
Loại pháp khí này, ngoài việc dùng chung với kim cang xử trong Mật Pháp ra, thường thống nhất là sử dụng ở đàn “Du Già Diệm Khẩu Thí Thực”, còn trong Hiển giáo thì dùng để dẫn hồn, lễ sám. Người chủ đàn sử dụng trong tán tụng, làm cho giọng điệu càng trang trọng hơn. Nói chung, linh được sử dụng phối âm trên những làn điệu tán tụng, trong tất cả những Pháp hội sinh hoạt nghi lễ thường ngày của thiền môn.
Nghe tiếng linh reo lòng tỉnh giác
Thấy rõ ràng thiện ác trong tâm
Ngát thơm làn khói hương trầm
Thiền cư tịch tĩnh cao thâm đạo mầu.
◊-◊———————————————————————-◊-◊
THÍCH THỊ PHƯỚC
Từ đó, nguồn cội yêu thương hiếu đạo đã được khơi dậy một cách mạnh mẽ, nên rằm tháng bảy trở thành một lễ hội truyền thống tri ân cao quý của Phật giáo: Tết trung nguyên, rằm tháng bảy, địa quan xá tội, Mục liên cứu mẹ, lễ tự tứ,…Đây là ngày lễ truyền thống của đạo lý Việt Nam, dạy cho mọi người xóa bỏ hận thù, biết làm mới với tinh thần “Xá Tội – tha thứ những lỗi lầm”.
Con quỳ lạy Phật Thích Ca
Chứng minh đệ tử tên là Mục Liên
Lòng con mộ đạo tu hiền
Xuất gia theo Phật cầu nguyền hôm nay.
Nghe kinh Phật thuyết bảy ngày
Minh tâm kiến tánh như lai trọn lành
Lục thông đầy đủ nên danh
Muốn tìm Cha Mẹ lòng thành gắng công.
Đền ơn cho bú ẵm bồng
Liền dùng đạo nhãn xem liền thế gian
Thấy vong Mẹ khổ muôn vàn
Ốm gầy đói khát trong đàng quỷ ma.
Mục Liên kêu Mẹ khóc la
Đau lòng thương Mẹ đọa sa Diêm đình
Thanh Đề nhìn thấy con mình
Mục Liên cứu Mẹ hết tình gắng công.
Con ơi! Mẹ đói trong lòng
Mục Liên nghe nói khóc ròng thở than
Vội vàng trở lại thế gian
Bới cơm một bát đem sang Mẹ mừng.
Và cơm vô miệng nửa chừng
Chén cơm hóa lửa phừng phừng thành than
Mục Liên xem thấy kinh hoàng
Trong lòng đau đớn khóc than buồn tình.
Mẹ ơi! Niệm Phật độ mình
Trở về lạy phật cầu xin Mẹ già
Thích Ca Đức Phật phân qua
Mẹ ngươi tội nặng đọa ra nghiệp hành.
Ta truyền cứu tế pháp lành
Cần cầu Tăng chúng tịnh thanh chú nguyền
Cầu cho Phụ Mẫu hiện tiền
Lục thân quyến thuộc bình yên đều hòa.
Bảy đời Phụ Mẫu đã qua
Về Trời hưởng phước sáng lòa hào quang
Vui chơi thong thả thanh nhàn
Ngày rằm tháng Bảy lập đàn trai tăng.
Sắm cơm trăm món đồ ăn
Trái cây ngũ quả hương đăng rõ ràng
Chiếu, giường, bồn nước, mùng, màn
Dầu, đường, trà lá, bát vàng đựng cơm.
Những đồ vật quý bông thơm
Thành tâm dọn tiệc Lan Bồn phân minh
Cúng dường Tam Bảo cầu Kinh
Chư Tăng tịnh giới giữ gìn nghiêm trang.
Cầu cho Thí chủ Trai đàn
Tâm hành thiền định vái van chúc nguyền
Thanh Đề khổ ách hết liền
Ngày rằm tháng Bảy thành tiên về Trời.
Noi gương hiếu thảo đời đời,
Xót thương Phụ Mẫu hiện thời nuôi con.
Nhai cơm cho bú hao mòn
Ơn sâu nghĩa nặng thương con hết lòng.
Trời cao đất rộng mênh mông
Biển hồ lai láng sánh đồng Thái sơn
Tu hành báo tứ trọng ân
Độ đời ba cõi sạch trơn trọn lành.
Mục Liên đại hiếu tu hành
Báo ân Phụ Mẫu nên danh độ đời.
Câu chuyện của hai đóa hồng trong đêm trước ngày Vu Lan. Đó là Hồng Nhung đỏ Giảm và Hồng trắng tinh khôi.
Ngày lễ Vu La n người ta cài lên cánh mình đóa Hồng Nhung nếu họ may mắn còn có mẹ, người mất mẹ cài đóa Hồng trắng cho mình.
Đêm tháng 7 Âm lịch. Ngày trăng thứ 14 đủ tròn và sáng để chiếu lên vạn vật. Vườn hồng nằm dưới ánh trăng vàng dịu dàng. Tia sương của đêm đọng lại lá, lên những cánh hồng. Những đóa hồng tỏa mùi thơm khắp không gian về đêm. Chỉ còn đêm nay nữa thôi, sáng mai sớm hết những thứ đóa hồng này sẽ được ngắt, để người đời dùng chúng thay cho lời tri ân với mẹ! Ngày Lễ Vu Lan.
Hồng Trắng được trồng cạnh Hồng Nhung. Hồng Trắng say sưa tận hưởng cái lạnh của sương, uống lấy từng giọt sương để khiến mình có thể rực rỡ nhất vào ngày mai. Đóa Hồng Nhung nhìn bạn đang cố gắng hết sức có thể để tăng nhựa sống cho mình, Hồng Nhung rụt rè nói với bạn:
– Hồng Trắng ơi, mai là ngày lễ Vu lan rồi, cậu có buồn không?
– Tại sao lại buồn chứ?
Gương mặt Hồng Trắng vẫn tươi tắn lạ thường. Hồng Nhung khẽ khàng:
– Tớ không biết vì sao trong ngày lễ Vu lan con người lại dùng tớ, một loài hoa hồng mang màu đỏ để dành cho những người còn mẹ trên đời. Còn cậu – loài hoa hồng trắng luôn phải dành cho những người đã mất mẹ. Có khi nào cậu thấy buồn không?
– Không đâu, tớ không phải là đại diện cho sự bất hạnh của những người mất mẹ, tớ thay họ nói lên tình yêu vô bờ bến mà họ dành cho mẹ. Họ dùng tớ để thay lời cảm ơn và thể hiện lòng kính yêu với mẹ, ngay cả khi mẹ không còn trên thế gian này nữa. Được cài trước lồng ngực của những người mất mẹ, tớ nghe được tiếng thổn thức, một nỗi xót xa trào dâng qua từng nhịp đập của con tim.
- Nhưng những người còn mẹ sẽ vui vẻ hơn những người mất mẹ vì vậy nếu được chọn cài lên ngực những người còn mẹ sẽ hạnh phúc hơn rất nhiều phải không nào? Hồng Nhung gặng hỏi bạn.
- Tôi nghĩ đến tớ khi nằm trên thăng của người khác, những người may mắn còn mẹ sẽ hiểu họ cần phải làm gì xứng đáng với ân huệ mà cuộc đời còn dành cho họ. Họ cần phải có nhiều hơn để đến một ngày nào đó khi phải cài đặt lên vũ khí, họ không cảm thấy ân hận vì mình đã không làm một người tốt. Tôi hạnh phúc khi nói thay tình yêu của những người mất mẹ và nuôi dưỡng tới những người còn mẹ. Tôi đã làm giả sứ của tình nguyên tử quý giá.
Hồng Nhung nhìn Hồng ngưỡng ngưỡng. Cả hai yên lặng hút dưỡng dưỡng từ đất và uống sương đêm để mình đẹp hơn vào ngày mai.
(Diệu Bạch St)
◊-◊—————————————– ———————-◊-◊
NĂM THÁNG DẦN TRÔINĂM THÁNG DẦN TRÔI
Thích Thiện Phước
Cuộc đời là một hành trình luôn đưa ta về phía trước, không giậm chân tại chỗ, không lùi lại phía sau, từng bước chân trải dài ấy, luôn mang theo: Ước mơ thách thức, hạnh phúc niềm đau, nụ cười tiếng khóc, thất bại thành công, nhục vinh được mất,… có người đạt được đỉnh cao của sự nghiệp một cách mau chóng dễ dàng khi còn rất trẻ, có người lận đận mãi vẫn không thành, có người thì chưa lên đến đài vinh quang thì nhìn lại đã già, hơi tàn sức kiệt, rồi phải chống chọi chịu đựng với bệnh tật, như chờ đợi đến hồi kết thúc một chuyến đi xa…
Ai cũng có một thời vẫy vùng xông pha nơi chân trời góc biển, rồi cũng có lúc phải thu mình bình lặng chốn quê nhà, vui cùng cỏ nội mây ngàn, đếm từng giọt mưa rơi như dòng thời gian của đời người đang trút xuống… trở về sống cho mình, ngồi cắt móng tay, đếm từng hơi thở, soi gương nhìn mặt mình thật kỹ thật lâu, để thấy những nếp nhăn in đậm nét phong trần, thấy mây bay cuối tận chân trời mà lòng đầy xao xuyến, bỗng quên đi bao ký ức về cuộc đời thành bại nhục vinh, đã là lữ khách trần gian thì cái gì là của họ của ta, đến lúc an lòng nhìn lại buông xuôi muôn duyên để nhẹ lòng cho một chuyến đi về…“cô đơn không hẵn một mình, một mình không hẵn cô đơn”, chim hót, lá rơi, bầu trời đầy sao đêm…chỉ một mình ta nhưng ngập tràn hạnh phúc bao la.
Mờ sáng rừng thiền chưa dọi nắng
Đêm về hoa cỏ cũng lặng yên
Từng tiếng chim kêu bình minh dậy
Sương lờ bóng nguyệt giới hương bay.
Thật ra, đời người mau chóng lắm bạn, tất cả mọi chúng ta đều sẽ có ngày ly biệt và đến điểm dừng, đó là ngày mà mình rời xa thế giới nầy, ly biệt người thân thương, mọi thứ mà ta gắn bó trân quí yêu thích rồi cũng phải buông xuôi, ta không giữ mãi những gì mình có được, mất mát, đổi thay, tàn hoại…vì thế gian là vô thường, có một thứ không bao giờ thay đổi, đó là luôn luôn thay đổi, sống ở đời đôi lúc cũng phải tuỳ duyên, thay đổi chính mình cho phù hợp với thời đại hoàn cảnh, nếu ta không thay đổi thì sẽ bị thay thế và lùi về phía sau.
Nếu biết còn vài ngày, vài giờ, vài phút giây nữa để sống, thì bạn sẽ sống như thế nào, và làm gì cho khoảng thời gian còn lại của mình?… Ai nấy đều có nỗi khổ niềm đau, vì vậy cho dù hoàn cảnh nào, ta phải sống tràn ngập tình thương yêu: Bản thân, mọi người và muôn loài, khi tình thương đủ lớn thì cánh cửa khổ đau cũng dần khép lại, xin cho đi tình thương vô hạn bằng nhiều phương diện ở trong đời.
Lạy Phật mong sao cho con và mọi người mọi loài sống an lành tự tại, như cánh hạc tung bay giữa bầu trời cao rộng thênh thang, như những đám mây nhẹ nhàng phiêu bồng cao vút chốn thiên không, như dòng nước thì thầm len lõi xuyên qua mọi ngóc ngách của vũ trụ bao la, thong dong từng bước chân đi ngang cuộc đời một cách an toàn không vướng mắc, như làn gió thổi qua những cánh đồng hoa cỏ, mang theo hương thơm vi diệu lan tỏa khắp mọi chân trời.
Thời gian của kiếp người là một nguồn tài nguyên có giới hạn, không thể tái chế, mua bán, trao đổi, tiền bạc châu báu mất đi hôm nay, ngày mai có thể tìm được, còn thời gian trôi qua rồi, sẽ không bao giờ trở lại. Món quà vô giá này, tạo hóa đã ban cho chúng ta và muôn loài đồng đều như nhau. Mỗi ngày đêm có 24 giờ đồng hồ, nhưng chúng ta sử dụng vào việc gì, đó là chuyện cá nhân của từng người…
Đời người sống vài mươi năm, thật quá ngắn ngủi so với vòng luân hồi vô tận. Mỗi một hành nghiệp của chúng ta, dù tốt hay xấu, đều ẩn tàng lý nhân quả ở đó. Vì vậy, khi được làm thân người, bạn hãy tận dụng cơ hội hiếm có nầy, cố gắng sống nhân từ, đạo đức, chân chánh, trung nghĩa, thanh cao, liêm khiết,… trải lòng yêu thương giúp đỡ mọi người.
Cuộc đời, vốn dĩ có nhiều sự bất an đau khổ, ta nên sống sao cho có ý nghĩa, mang lại niềm vui cho mình và người. Ngày ngày tu nhân tích đức, sớm sớm tinh tấn công phu, cầu mong cho mọi người hết khổ, sống đời an vui hạnh phúc trong cõi phù du mộng ảo nầy.
Tuy nhiên, cuộc đời thật tươi đẹp cho những ai sống chân thật với nó: Và vẫn còn đâu đó những khoảng trời bình yên vô hạn, những đàn cò trắng bay lượn xa xa trên cánh đồng lúa bất tận giữa buổi chiều thu nhạt nắng, những khu rừng nguyên sinh xanh thẳm bao la, những dòng sông tĩnh lặng uốn khúc êm đềm, những chú ong dễ thương chăm chỉ hút mật, những đàn bướm bay chập chờn trong vườn hoa cỏ dại khi bình minh về còn đượm thấm sương đêm….thành trụ hoại không – thế gian vô thường, sanh già bệnh chết – thân người giả tạm, xuân hạ thu đông – năm tháng dần trôi, lá rụng về cội nước chảy ra khơi, an nhiên cho một chuyến đi về,…
Thong dong ở mọi phương trời
Mây bay gió thổi mong đời an yên.
Gót chân thoát tục tuỳ duyên
Lối về hoa cỏ thiên nhiên thanh nhàn.
Nha Mân, 03/2023.
Kinh Vu Lan – Thích Thiện Phước.