Trống là một loại nhạc khí thường thấy ở dân gian, trống tùy theo hình dạng, công dụng mà tên gọi cũng bất đồng, như ở chiến trường, điện đường, đình miếu, võ đài… có đầy đủ ý nghĩa như răn nhắc, cổ vũ, khích lệ,… còn trống ở trong tự viện Phật giáo có tác dụng báo giờ, tập chúng, tán tụng.
Danh từ Cổ (trống) nầy chúng ta thấy Phật nói đến rất nhiều trong kinh điển, ví như: Kinh Khổ Ấm trong Trung A Hàm; Phẩm thứ 2, Mộng Kiến Kim Cổ Sám Hối trong kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương; Phẩm thứ 4, Đề Bà Đạt Đa trong kinh Pháp Hoa; Quyển thượng, Đại Bát Niết Bàn Kinh; Quyển 81, Tân Hoa Nghiêm Kinh do Ngài Thật Xoa Nan Đà dịch; Quyển 18, Luật Ngũ Phần,…
Trống có nhiều loại hình dáng và tên gọi, loại nhỏ gọi là ứng cổ; loại lớn gọi là tẩu cổ; có chân gọi là túc cổ; có cây cắm gọi là doanh cổ; treo để đánh gọi là huyền cổ; có cán cầm để lắc tự nó kêu gọi là cảnh cổ, ngoa cổ, diêu cổ; hình dáng giống như thùng sơn 2 mặt gõ đều kêu gọi là yết cổ; hình dáng như yết cổ nhưng thân to ngắn dùng ngón tay để đánh gọi là khải cổ, triệp cổ, đáp lạp cổ; đầu to mặt rộng lưng nhỏ đánh vào 2 đầu gọi là chấn cổ, yêu cổ, Hán cổ, Kê Lâu cổ. Ngoài ra trong các Văn Hiến Thông Khảo có nêu ra rất nhiều danh mục nói về trống.
Tại Trung Quốc thời cổ đại cũng có nhiều loại trống, trong đó một vài loại do các bậc tiên triết sáng tạo, có một vài loại được lưu truyền từ Tây Vực.
Ở Việt Nam ta có trống Đồng Đông Sơn, đây là loại trống tiêu biểu cho nền văn hóa Đông Sơn (700 TCN – 100) của người Việt thời cổ đại, hình dáng cân đối hài hòa thể hiện trình độ mỹ thuật rất cao, đặc biệt là những hoa văn khắc họa tính chất chân thật trong sinh hoạt của người Việt Nam ta trong thời kỳ dựng nước.
Trống đồng Đông Sơn
Chất liệu của trống vào thời kỳ đầu có: Vàng, ngọc, gỗ, đá,… cho đến nay thì phần nhiều dùng gỗ và da chế tạo bịt thành. Dùng kim loại chế tạo thì gọi là chinh cổ; dùng đá để chế tạo thành thì gọi là thạch cổ; dùng da thú để chế tạo thành thì gọi là bì cổ.
Cách sử dụng trống trong nhà Phật, theo bộ Thích Thị Yếu Lãm của Ngài Đạo Thành dẫn Luật Ngũ Phần chép: “Chư Tỳ kheo khi Bố tát, đại chúng không biết thời gian chính xác để vân tập. Phật dạy, phải đánh kiền chùy, đánh trống thổi pháp loa”.
Có khi trống dùng để đánh để báo giờ ăn cơm. Kinh Lăng Nghiêm chép: “Ăn xong đánh trống, đại chúng vân tập đánh chuông, hoặc đánh khi thuyết pháp”.
Luật Tăng Kỳ chép: “Đế Thích có 3 cái trống, khi thuyết pháp ở Thiện Pháp đường, thì đánh cái trống thứ 3”.
Theo đây chúng ta có thể biết lúc đức Phật còn trụ ở đời, trống xưa nay dùng để sử dụng trong lúc Bố tát tụng giới, Thọ trai, nghe pháp,… hoặc có khi đánh để tập chúng. Sau này mới quy định trong tự viện lúc thức dậy, lúc đi ngủ thì gõ chuông đánh trống để làm hiệu lệnh, lại còn đem trống sử dụng trong nghi lễ tán tụng, phối họp xướng niệm, phổ thành khúc điệu để làm kỷ nhạc cúng dường trang nghiêm đạo tràng, dùng âm thanh để làm Phật sự giúp cho đại chúng thành tâm xưng niệm.
Ngoài ra còn có loại trống tay – tức loại trống nhỏ có cái cán để cầm trên tay, dùng để đánh trong lúc đi.
Phương pháp đánh đại cổ tức trống cỡ lớn là: Tay phải cầm 1 dùi, tay trái cầm 1 dùi, lúc đánh phải chú ý nhịp điệu tiết tấu, không được đánh sa
Cách cầm và đánh trống tay: Lúc không đánh thì 2 tay bưng trống, dùi gác ngang trên mặt trống, 2 ngón trỏ và 2 ngón giữa giữ cho yên, 2 ngón cái vịn vào mặt trống, còn 4 ngón kia: 2 ngón vô danh và 2 ngón út vịn đỡ trống.
Lúc đánh thì tay trái cầm trống, tay phải cầm dùi, dùng ngón cái và ngón trỏ của bàn tay trái cầm, ngón giữa gá vào, cầm dùi thì dùng ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa, hướng vào trong mà đánh.
Ngoài ra có một loại trống tay, một mặt hình như cái quạt, loại này dùng tay trái cầm cán là được rồi.
Trên đây đã giới thiệu về cách đánh trống, đều là cách đánh thông thường nhất. Ngoài ra, trong sinh hoạt thường nhật của Tòng lâm khắp nơi, khi thuyết pháp, thượng đường,… đều đánh trống, xin lược nêu sau:
1. Trống đánh khi thuyết pháp.
2. Trống đánh khi lên tòa.
3. Trống đánh khi uống trà.
4. Trống đánh khi ăn cơm.
5. Trống đánh khi vấn tấn.
6. Trống đánh khi xả thiền.
7. Trống đánh buổi chiều.
8. Trống đánh buổi sáng.
9. Trống đánh từng canh.
10. Trống đánh khi đến giờ tắm rửa.
11. Trống đánh khi làm việc tập thể.
12. Trống đánh khi có lửa cháy.
* Duyên do sử dụng trống:
Có lần Đức Phật triệu tập Tăng chúng, người tuy đến đông nhưng trước sau bất nhất. Phật dạy phải đánh kiền chùy để thông tri đại chúng. Do đông người có nhiều tạp âm, nên vẫn không nghe tiếng kiền chùy. Đức Phật bèn dạy: Thế thì nên đánh trống, vì trống có tiếng to nên âm thanh truyền ra xa, do vậy mà Tăng chúng đến đúng giờ. Kể từ đó trống được sử dụng trong sinh hoạt nhà Phật, không luận là hoạt động gì đều phải đánh trống để làm hiệu lệnh, đặc biệt là lúc sáng sớm hoặc chiều tối phải đánh chuông trống làm hiệu lệnh nhằm thống nhất thời gian, thống nhất hành động, thành ngữ “Chuông sớm trống chiều” có xuất xứ từ đây.
* Những qui định chế trống:
Lúc đầu trống được sử dụng trong nhà Phật và trống ngoài dân gian sử dụng không có gì khác biệt. Thế nhưng đức Phật phát hiện các Tỳ kheo đa phần sử dụng trống bằng vàng, bạc, ngọc thạch, đương nhiên là không phù hợp với tinh thần tu hành, do đó Ngài bảo Tăng chúng nên sử dụng trống bằng đồng, sắt, đất nung, gỗ, rồi dùng da bịt. Nhân thế mà dăm trống trong nhà Phật được dùng gỗ để làm, còn bằng đồng, bằng đất nung thì hiếm thấy.
Thời đại gần đây việc sử dụng trống trong nhà Phật, thông thường dùng gỗ làm dăm rồi dùng da trâu bịt hai mặt, thấp như cái thùng, còn loại trống lớn thì được treo hoặc để trên giá ở trong lầu trống, có khi để một góc nào đó ở trên chánh điện. Còn 2 loại trống cỡ nhỏ và vừa thì để trên giá, nhằm để đánh phối hợp với chuông, sử dụng trong lúc tán tụng xướng niệm.
Trống được sử dụng trong tự viện Phật giáo phần lớn là dùng bọng cây, nếu trống lớn thì phải xây lầu gác mà để, hoặc có thể chọn một vị trí nào đó trên chánh điện mà để. Còn trống bậc trung và nhỏ cũng vậy.
Trong Tự viện Phật giáo Bắc truyền, phép xây lầu trống cũng có qui cách, ở giữa Sơn môn và Tứ Thiên Vương điện xây hai lầu chuông trống, lầu chuông ở hướng Đông, lầu trống ở hướng Tây, đây chính là “Đông chuông Tây trống” hoặc “trái chuông phải trống”. Trống lớn thì treo ở lầu trống, được đánh phối hợp với chuông, căn cứ theo luật mà đánh.
* Các loại trống:
Trong Tự viện Phật giáo Bắc truyền, có nhiều loại trống khác nhau. Bách Trượng Thanh Qui có nêu ra các thứ như: Pháp cổ, trà cổ, trai cổ, hiểu cổ, hôn cổ, canh cổ, dục cổ,…
Pháp cổ là loại trống quan trọng trong Phật giáo. Trong kinh Phật dạy: Pháp cổ sử dụng trong lúc Trụ trì thượng đường, tiểu tham, phổ thuyết, nhập thất, có lúc đánh trước khi khai Pháp hội để triệu tập Tăng chúng, trong Tự viện Thiền tông, pháp cổ thường để ở góc Đông Bắc. Nếu như trong Tự viện không có pháp đường, thì an trí ở góc Đông Bắc chánh điện.
Trà cổ là để triệu tập đại chúng dùng trà, hoặc dâng trà lễ nhân ngày húy kỵ của Tổ Sư. Trong tự viện Thiền tông, trà cổ thường do thị giả đánh, để ở góc Tây Bắc pháp đường, nếu không có pháp đường thì để ở góc Tây Bắc chánh điện.
Trai cổ là đánh vào giờ ngọ trai của đại chúng. Thông thường treo ở trước cửa nhà bếp, do khố đường đánh.
Canh cổ xuất hiện rất sớm trong dân gian, về sau được đưa vào Tự viện. Canh cổ dùng để báo giờ lúc ban đêm, một đêm chia thành 5 canh, cứ y theo từng canh mà đánh, do khố ty đánh.
Dục cổ là đánh để thông tri Tăng chúng đi tắm, cách đánh là trước chậm sau gấp, dục cổ do Tri dục đánh.
Ngoài ra đối với nền âm nhạc Việt Nam ta còn có các loại trống như:
Trống Chiến là nhạc khí màng rung gõ của Dân tộc Việt, Trống Chiến còn gọi là Trống trận dùng để chấm câu nói lối hoặc mở đầu những câu Hát Khách, Hát Nam hay đánh những điệu đâm bang xuất trận trong Hát Bội. Nghệ thuật Hát Tuồng (Hát Bội) ra đời từ bao đời trước thì Trống Chiến cũng được xuất hiện theo thời gian trên.
Trống chiến
Trống Sấm là nhạc khí màng rung có kích thước rất lớn của Dân tộc Việt.
Trống sấm
Trống Cái là nhạc khí mng rung gõ của Dân tộc Việt và nhiều Dân tộc Việt Nam. Trống Cái là nhạc cụ không định âm, đã xuất hiện ở Việt Nam hàng nghìn năm, rất phổ biến ở các đình làng của người Việt.
Trống cái
Trống Ban là nhạc khí màng rung của Dân tộc Việt.
Trống ban
Trống đế (trống chầu) là nhạc cụ gõ, họ màng rung xuất hiện ở Việt Nam từ khá lâu đời. Trong nghệ thuật chèo người ta gọi nó là trống đế, còn trong ca trù nó là Trống chầu. Đúng như tên gọi, Trống đế làm nhiệm vụ đế còn có nghĩa là lót, là chỗ dựa, làm điểm xuyết cho diễn viên khi biểu diễn và ca hát.
Trống chầu
Trống Ðại là nhạc khí màng rung gõ của Dân tộc Việt và nhiều Dân tộc Việt Nam.
Trống đại
Trống Bản là nhạc khí màng rung của Dân tộc Việt.
Trống bản
Trống Cơm là một nhạc cụ thuần ty Việt Nam có từ cổ sơ. Chỉ có duy nhất dân tộc Việt Nam mới sử dụng nhạc cụ Trống Cơm.
Trống cơm
Trống Cơm mình dài và nhỏ, một loại trống có tính cách Việt hoàn toàn từ âm thanh, hình dáng, cho đến cách biểu diễn. Khi tấu nhạc, nhạc công phải đeo dây trống lên cổ để trống nằm ngang trước bụng và vận dụng mười ngón tay thật khéo léo trên cả hai mặt trống.
Có một điều khác thường, là người ta đính thêm hai nắm cơm nếp nhỏ ln mặt trống.
Nhìn chung, trống trong Phật giáo, ngoài công dụng tập chúng ra, về sau được sử dụng vào các nghi thức tán tụng xướng niệm, phối họp diễn tấu với các nhạc khí, để dùng âm nhạc cúng dường trang nghiêm đạo tràng. Hơn thế nữa, trong sinh hoạt tự viện Tòng lâm theo quy cũ thiền gia, hai thời công phu sớm chiều đều đánh trống. Tại Việt Nam ta trong những kỷ niên trước đây, ở vùng thôn quê, tiếng trống còn là tiếng báo giờ cho những người nông phu biết giờ để thức dậy chuẩn bị công việc cho ngày mới, hay kết thúc một ngày làm, với công việc nhọc nhằn ngoài đồng áng. Vì vậy trong Tòng lâm khi sử dụng phải bảo đảm thời khắc cho chính xác./.
◊◊——————————————————————————◊◊
Xuân đến rồi đi, hoa nở lại tàn, đó là định luật muôn thuở của vũ trụ. Tuy nhiên, có một mùa xuân không đến cũng không đi, hoa xuân vẫn nở mãi trong lòng người con Phật, không bao giờ tàn phai, một mùa xuân bất tận cho những ai thấy được thực tướng của các pháp.
Ta thấy được tinh thần nầy qua bài thơ của Thiền sư Đạo Xuyên:
远观山有色
近听水无声。
春去花还在
人来鸟不惊。
头头皆显露
物物体元平。
如何言不会
祗为太分明。
“Viễn quan sơn hữu sắc.
Cận thính thủy vô thinh.
Xuân khứ hoa hoàn tại.
Nhơn lai điểu bất kinh.
Đầu đầu giai hiển lộ.
Vật vật thể nguyên bình.
Như hà ngôn bất hội.
Chỉ vị thái phân minh.”
Tạm dịch:
Đứng xa nhìn mà núi vẫn màu xanh.
Lại gần nghe nước chảy không âm thanh.
Xuân đi hoa còn nở.
Người đến chim không sợ.
Mọi thứ hiển bày rõ.
Mọi vật tánh bình lặng.
Nói mãi sao không ngộ.
Do phân biệt quá nhiều.
Văn từ trong bốn câu đầu bài thơ miêu tả như một bức tranh, cho nên có khi người ta gá thêm chữ “họa” ở đầu đề. Họa về cảnh núi non thì ta thấy quá rõ về hình sắc, nên đứng xa thấy vẫn có suối chảy, có chim, có hoa núi bừng khai khi xuân về ấm áp; Khi đến gần thì không nghe tiếng suối chảy; Dù mùa xuân qua rồi nhưng hoa vẫn còn nở mãi; Người đến nhưng chim không bay đi. Bốn câu nầy mới đọc qua ta thấy tác giả dường như đang diễn tả về một bức tranh, đề cập về ngoại cảnh thiên nhiên.
Thế nhưng, bốn câu sau ta thấy tác giả không đề cập gì đến bức tranh cả, mà nói toàn nói về tự tánh thanh tịnh của nội tại, mượn cảnh để nói về thiền lý, nhìn cảnh vật với một tự tánh thanh tịnh.
Do đó, mới thấy được mọi thứ đều là đạo, mọi chỗ đều hiển lộ tự tánh sáng suốt, mọi sự mọi vật tự tánh của chúng vốn giống nhau, xưa nay vốn bình đẳng không hai không khác. Sở dĩ không rõ được bản thể xưa nay, chỉ vì rơi vào sự phân biệt tầm thường, rồi tư duy chấp trước.
Tự tánh thấy núi, mặc dù có sắc tướng, nhưng có cũng như là không, tất cả chỉ là huyễn tướng; tự tánh nghe nước chảy, mỗi tiếng đều không có thực thể, nên có tiếng cũng như là không tiếng; tự tánh nhìn thấy hoa mùa xuân, không có thủ xả, ngay lúc ấy đó chính là tự tánh, cho nên mùa xuân đi qua rồi hoa vẫn còn hé nụ, đây là hoa của tự tánh, mà hoa của tự tánh thì không có tàn phai, vì tự tánh vốn không có duyên sanh diệt; người đến gần, chim vì sợ mà bay đi, nhưng tự tánh của chim thì vẫn tự tại như nhiên, không từng sợ sệt điều chi. Tất cả mọi thứ hiển bày rõ thì đều là tự tánh đại đạo; muôn sự muôn vật đều có tự tánh thanh tịnh, xưa nay vốn bình đẳng; Thiền sư đã nói như vậy mà không lãnh hội được, bởi vì người ta thường đem tự tánh thanh tịnh sáng suốt chuyển thành vọng thức tư duy phân biệt. Vậy thì toàn bộ bài thơ là nói về Thiền lý, trong đó liên quan đến cảnh vật và con người đạt đến sự triệt ngộ. Thiền sư Bàng Uẩn nói:
但自无心于万物
何妨万物常围绕
铁牛不怕狮子吼
恰是木人见花鸟
木人本体自 无情
花鸟逢人亦不惊
心境如如只个是
何虑菩提道不成
庞蕴居士
Phiên âm:
Đản tự vô tâm ư vạn vật
Hà phương vạn vật thường vi nhiễu
Thiết ngưu bất phạ sư tử hống
Kháp tự mộc nhân kiến hoa điểu.
Mộc nhân bản thể tự vô tình
Hoa điểu phùng nhơn diệc bất kinh
Tâm cảnh như như chỉ cá thị
Hà lự Bồ đề đạo bất thành
(Bàng Uẩn Cư sĩ).
Tạm dịch
Đối với muôn vật vô tâm nha
Nào ngăn muôn vật nhiễu hại ta
Trâu sắt thản nhiên Sư tử rống
Khác gì người gỗ ngắm chim hoa.
Tình trong người gỗ vốn là không
Người gặp chim hoa bản thể đồng
Tâm cảnh như như là thế đấy
Lo gì giác ngộ chẳng thành công.
Đây là miêu tả sự thanh tịnh của tự tánh, bặt dứt tư lự không còn dùng phán đoán của tâm thức, vạn vật như nhiên. Chính vì tự tánh thanh tịnh, nên đối với cái nhìn về vạn vật xung quanh hoàn toàn thanh tịnh.
Tướng do tâm sanh, cảnh theo tâm hiện, nội tâm thanh tịnh thì ngoại tướng tự nhiên cũng thanh tịnh. Tâm mình vui vẻ điều hòa, thì ngoại duyên cũng vui vẻ điều hòa. Tâm mình thay đổi thế nào, thì thế giới cũng thay đổi như thế ấy.… tâm ta buồn thì nhìn vạn vật u buồn, tâm ta vui nhìn vạn vật vui,… bởi vì tâm làm chủ muôn vật.
Tự tánh thấy núi tuy có sắc tướng, thì có cũng như không, chỉ vì huyển tướng mà thôi. Tự tánh nghe tiếng nước chảy, biết tiếng vốn là không thật, cho nên có tiếng cũng như không.
Tuy nhiên, mây bay nước chảy là hiện tượng tự nhiên, chúng ta phải sống hài hòa với thiên nhiên, không thể nào tách rời mà tồn tại.
Tự tánh xem hoa mùa xuân nở, không có lấy không có bỏ, không khen không chê, ngay lúc ấy là tự tánh. Cho nên mùa xuân đi rồi mà hoa vẫn còn nở.
Hoa bên ngoài có nở có tàn, dù là hoa trong bức họa đi nữa rồi cũng sẽ hư mục, nhưng hoa lòng, hoa giác ngộ, thì mãi mãi nở trọn vẹn trong tự tánh.
Câu mùa xuân đi rồi mà hoa vẫn còn hàm tiếu, ý nói thời gian dù có thay đổi, cảnh vật dù có bị vô thường chi phối, nhưng tâm hoa vẫn luôn luôn tồn tại. Sắc thân thì mất, nhưng pháp thân vẫn thường hiện hữu, pháp thân không bị vô thường chi phối. Mùa xuân ấy là biểu tượng của sự khai ngộ trong tiềm thức.
Thiền sư Mãn Giác có bài thơ sau:
春去百花落
春到百花开
事逐眼前过
老从头上来
莫谓春残花落尽
庭前昨夜一枝梅.
Phiên âm:
Xuân khứ bách hoa lạc.
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhãn tiền quá.
Lão tòng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận.
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Tạm dịch:
Xuân đi trăm hoa rụng.
– Vì đây là hoa của cây cỏ, hoa ở ngoại cảnh thiên nhiên.
Xuân đến trăm hoa nở.
– Đúng thời tiết nhân duyên thì bừng nở
Trước mắt việc qua mãi.
– Sự vô thường xoay vầy thay đổi, mọi việc diễn biến theo quy luật thành trụ hoại không, sanh trụ dị diệt.
Trên đầu già đến rồi.
– Còn con người thì phải biến thiên theo bốn tướng sanh lão bệnh tử.
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết.
– Hoa trong tự tánh không tàn phai dù mùa xuân đã qua.
Đêm qua sân trước một cành mai.
– Hoa nầy vượt ra ngoài khái niệm của thời gian.
Vì đây là mùa xuân giác ngộ, tự tánh đã bừng khai.
Mọi việc xao động, tâm viên ý mã đã ẩn sâu, bặt dứt hết núi tự ngã kia, thì hoa giác ngộ sẽ hiện hữu mãi trước mặt. Cho nên hoa tự tánh thì không tàn tạ theo thời gian, vì tự tánh thì làm gì có sanh diệt?.
Như sự ngộ đạo của Thiền sư Linh Vân, sau bao nhiêu năm bôn ba tham học với những bậc có tuệ giác lớn, nhưng đến khi thời tiết nhơn duyên đã chín mùi, Lúc dừng lại ngắm nhìn hoa đào nở thì ngộ đạo, Ngài làm bài thơ diễn tả cảnh ngộ của mình trình lên Thiền sư Qui Sơn ấn chứng:
三十年来寻剑客
几回落叶又抽枝
自从一见桃花後
直至如今更不疑
灵云志勤禅师.
Phiên âm:
Tam thập niên lai tầm kiếm khách
Kỷ hồi lạc diệp hựu trừu chi
Tự tùng nhất kiến đào hoa hậu
Trực chí như kim cánh bất nghi
Tạm dịch:
Ba mươi năm rồi tìm kiếm khách
– Sau nhiều năm bôn ba tham học với những bậc giác ngộ trí tuệ, để mong cầu chứng đắc cho mình, trong Phật giáo kiếm là tiêu biểu cho trí tuệ sắc bén.
Bao lần lá rụng lại đâm chồi
– Trải qua thời gian dài, qua bao độ biến thiên của sự vật, lá già rụng chồi non ra. Thu đi xuân đến, nhưng chưa thấy gì là chứng đắc, chỉ vì lo đi tìm ở bên ngoài, bỏ quên ông Phật trong lòng mình.
Từ khi nhìn thấy hoa đào nở
– Đương niệm tiếp xúc với hiện thực khách quan, hòa nhập tâm hồn vào trong rạng thái ngay bây giờ và ở đây. Không tìm kiếm xa vời nữa, vô thường tức thường; sắc chính là không, không chính là sắc; sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Không phân biệt nhị biên, đã về tức là đã tới.
Mãi đến hôm nay chẳng còn nghi.
– Tuệ giác đã bừng khai, vạn hữu hiển hiện rõ ràng ngay trong đương niệm, không còn tư lự phan duyên nghi ngờ gì nữa.
Thật là “Phật tức tâm, tâm thành vốn có Phật; Tâm tức Phật, Phật chứng ở tấm lòng thành”.
Mọi việc xao động tiêu tan, tâm ý phân biệt và núi tự ngã không còn, thì hoa giác ngộ sẽ hiện hữu mãi trước mặt.
Người đến chim thấy vì sanh tâm sợ hãi mà bay đi, nhưng chim trong tự tánh thì vẫn như nhiên không lay động, không từng kinh sợ lo lắng, tất cả muôn sự muôn vật ở thế gian bổn tánh vốn là thanh tịnh.
Cho nên khi Phật mới thành đạo Ngài nói: “Nào dè tự tánh xưa nay vốn thanh tịnh” hay Ngài cũng đã từng nói: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”.
Tự tánh xưa nay thanh tịnh, bình đẳng, như thế thì tại sao Thiền sư lại phải mở lòng từ nói như thế, bởi vì con người đa phần rơi vào trạng thái tư duy phân biệt, đem tự tánh sáng suốt giác ngộ bỏ quên, cho nên mới có câu “Vác Phật đi qua nhà người để tìm Phật”.
Đây là một sự đương niệm hiện thực của hành giả trong thiền lâm, Thiền sư Huyền Quang có bài thơ nói rõ về tinh thần không phân biệt nầy, chỉ biết nhìn vào ngay hiện thực, nhìn cho thật rõ những gì đang xảy ra, không suy niệm về tương lai hay quá khứ.
花在庭中人在楼
焚香独坐自忘忧
主人与物浑无竞
花向群芳出一头
Phiên âm:
Hoa tại đình trung nhơn tại lâu
Phần hương độc tọa tự vong ưu
Chủ nhơn dữ vật hồn vô cạnh
Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu.
Tạm dịch:
Người ở trên lầu hoa dưới sân
– Người và cảnh cùng hiện hữu trong một không gian.
Vô ưu ngồi ngắm khói trầm xông
– Biết trở về chính mình an nhiên không tư lự, vượt ngoài cái hạn hữu của thời gian.
Hồn nhiên người vật không tranh cạnh.
– Người là người vật là vật, không phân biệt nhị biên, không bị trần cảnh chi phối.
Đóa hoa nở rộ ngát hương thiền
- Cảnh tượng trước mắt, một thực tại trí tuệ hiện tiền, hương hoa giác ngộ thơm ngào ngạt khắp chốn.
Trong “Huệ Hải Thiền Sư nói: “Người mê không biết pháp thân, thì chẳng gì khác ứng vật hiện hình, bèn gọi xanh xanh trúc biếc đều là pháp thân, rực rỡ hoa vàng đều là bát nhã. Hoa vàng nếu là bát nhã, thì bát nhã tức đồng với vô tình; trúc biếc nếu là pháp thân, thì pháp thân tức đồng với cây cỏ.”
Về sau nầy, nhân vì thế mà câu “Trúc biếc hoa vàng” là chỉ cảnh tượng trước mắt, thực tại đang là, không truy tìm về quá khứ, không ước vọng tương lai, mà là một thực tại hiện tiền. Hoa vàng còn chỉ cho hoa cúc.
Sách “Lễ Ký. Thiên Nguyệt Lệnh” chép: “Tháng cuối thu, hoa có màu vàng thì chỉ có loài hoa cúc”.
Ý thức luôn luôn chạy theo vọng tưởng, đó là căn bệnh cố hữu của tất cả chúng sanh. Vì vậy làm thế nào để “Tâm không ngăn ngại nơi mọi vật”, rỗng suốt tất cả, để đạt được tâm cảnh an nhiên, tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên.
Năm mới xuân về trăm hoa đua nở, cũng chính là hình ảnh bao nhiêu hoa nở của những mùa xuân trước “tân niên hoa phát cố niên hoa”, đời như bào ảnh nhấp nhô giữa trùng dương mênh mông, công danh phú quí khác chi đám phù vân lênh đênh trên nền trời, bốn mùa xoay vần hết xuân rồi lại đến thu, cuộc sống cứ tiếp diễn và trôi qua mãi mãi không bao giờ dừng lại. Chỉ có Đức Phật ngài đã tìm ra mùa xuân mới, một mùa xuân không có thời gian cũng không có không gian, một mùa xuân giải thoát an lành cho nhân loại.
Cho dù trong cuộc sống gặp nghịch cảnh đi nữa, chúng ta cũng nên nở một nụ cười hoan hỷ buông bỏ tất cả, bặt dứt hết mọi ý niệm phân biệt nhị biên để “ánh xuân quang Phật nhật” được bừng lên từ cõi miền sâu xa của dòng tâm thức vô tận. Lúc ấy chúng ta sẽ nhận ra được thể tánh sâu xa bình đẳng của vũ trụ vạn hữu. Trăm hoa đua nở ta đều biết, vạn vật đổi thay ta đều hay, vui xuân trong sự tỉnh thức, không chạy theo ảo ảnh sanh diệt của ngoại cảnh, mà sống trọn vẹn với chất xuân, chất xuân luôn hiện hữu, mà đã luôn hiện hữu, thì nào có đến có đi?. Tuy ta đón xuân một cách tuỳ duyên tùy tục, nhịp nhàng với cuộc sống đời thường nhưng từng bước chân thực tại vẫn đang an trú trong niềm hỷ lạc vô biên. Vì lẽ dòng suối hài hoà và niềm hạnh phúc chân chánh ấy, được khơi nguồn từ sự bình an vô tận, trong một tâm hồn khoáng đạt chứ không phải hướng về ngoại cảnh để truy cầu.
Năm tháng không chờ đợi người, sanh già bệnh chết ấy là lẽ thường tình của nhân sinh, sống chết chẳng qua chỉ là một giai đoạn trong tiến trình của sinh mạng. Đương nhiên, sự sống chết sẽ không còn là một chuyện thần bí nữa, nếu những ai đã thấy rõ được thực trạng của nó và tất cả chúng ta dường như ai ai cũng không thể đoán trước được điều gì sắp xảy ra trong một tương lai đầy hứa hẹn nào đó.
Người xưa khuyên chúng ta hãy nên siêng năng tu tập ngay từ khi tuổi còn trẻ, vì lúc tuổi già gặp nhiều sự trở ngại không thể tu được. Nếu người “việc làm đã xong” thì cho dù đại hạn có đến đi nữa nhưng họ vẫn tự tại an vui, không còn bối rối và bị nghiệp lực bức bách, như người tất bật lo toan trang trải nợ nần trong ngày chạp Tết.
Quá khứ thì đã qua rồi, hiện tại vẫn còn đang tiếp diễn, tương lai là những gì chưa thấy đến, người học Phật chúng ta nên vượt khỏi mọi ngăn cách của thời gian để thấy được lẽ hiện thực của cuộc sống.
Chúng ta nên hiểu biết thương yêu nhau, hãy đặt niềm tin tha thứ cho nhau, cùng dìu nhau trên bước đường giải thoát, an trú trong thực tại với tràn đầy niềm hỷ lạc, mùa xuân ngay bây giờ và ở đây. Được vậy thì “Xuân đi rồi mà hoa vẫn còn hé nụ”, mùa xuân nầy không còn hạn cuộc bởi khái niệm về thời gian và không gian nữa, mà là xuân trong tự tánh đương niệm thực tại hiện tiền.
Nha Mân 2024.
Ý NGHĨA LỄ TRUNG NGUYÊN
THÍCH THỊ PHƯỚC
Từ đó, nguồn cội yêu thương hiếu đạo đã được khơi dậy một cách mạnh mẽ, nên rằm tháng bảy trở thành một lễ hội truyền thống tri ân cao quý của Phật giáo: Tết trung nguyên, rằm tháng bảy, địa quan xá tội, Mục liên cứu mẹ, lễ tự tứ,…Đây là ngày lễ truyền thống của đạo lý Việt Nam, dạy cho mọi người xóa bỏ hận thù, biết làm mới với tinh thần “Xá Tội – tha thứ những lỗi lầm”.
SÁM MỤC LIÊN – THÍCH THIỆN PHƯỚC
Con quỳ lạy Phật Thích Ca
Chứng minh đệ tử tên là Mục Liên
Lòng con mộ đạo tu hiền
Xuất gia theo Phật cầu nguyền hôm nay.
Nghe kinh Phật thuyết bảy ngày
Minh tâm kiến tánh như lai trọn lành
Lục thông đầy đủ nên danh
Muốn tìm Cha Mẹ lòng thành gắng công.
Đền ơn cho bú ẵm bồng
Liền dùng đạo nhãn xem liền thế gian
Thấy vong Mẹ khổ muôn vàn
Ốm gầy đói khát trong đàng quỷ ma.
Mục Liên kêu Mẹ khóc la
Đau lòng thương Mẹ đọa sa Diêm đình
Thanh Đề nhìn thấy con mình
Mục Liên cứu Mẹ hết tình gắng công.
Con ơi! Mẹ đói trong lòng
Mục Liên nghe nói khóc ròng thở than
Vội vàng trở lại thế gian
Bới cơm một bát đem sang Mẹ mừng.
Và cơm vô miệng nửa chừng
Chén cơm hóa lửa phừng phừng thành than
Mục Liên xem thấy kinh hoàng
Trong lòng đau đớn khóc than buồn tình.
Mẹ ơi! Niệm Phật độ mình
Trở về lạy phật cầu xin Mẹ già
Thích Ca Đức Phật phân qua
Mẹ ngươi tội nặng đọa ra nghiệp hành.
Ta truyền cứu tế pháp lành
Cần cầu Tăng chúng tịnh thanh chú nguyền
Cầu cho Phụ Mẫu hiện tiền
Lục thân quyến thuộc bình yên đều hòa.
Bảy đời Phụ Mẫu đã qua
Về Trời hưởng phước sáng lòa hào quang
Vui chơi thong thả thanh nhàn
Ngày rằm tháng Bảy lập đàn trai tăng.
Sắm cơm trăm món đồ ăn
Trái cây ngũ quả hương đăng rõ ràng
Chiếu, giường, bồn nước, mùng, màn
Dầu, đường, trà lá, bát vàng đựng cơm.
Những đồ vật quý bông thơm
Thành tâm dọn tiệc Lan Bồn phân minh
Cúng dường Tam Bảo cầu Kinh
Chư Tăng tịnh giới giữ gìn nghiêm trang.
Cầu cho Thí chủ Trai đàn
Tâm hành thiền định vái van chúc nguyền
Thanh Đề khổ ách hết liền
Ngày rằm tháng Bảy thành tiên về Trời.
Noi gương hiếu thảo đời đời,
Xót thương Phụ Mẫu hiện thời nuôi con.
Nhai cơm cho bú hao mòn
Ơn sâu nghĩa nặng thương con hết lòng.
Trời cao đất rộng mênh mông
Biển hồ lai láng sánh đồng Thái sơn
Tu hành báo tứ trọng ân
Độ đời ba cõi sạch trơn trọn lành.
Mục Liên đại hiếu tu hành
Báo ân Phụ Mẫu nên danh độ đời.
Câu chuyện của hai đóa hồng trong đêm trước ngày Vu Lan. Đó là Hồng Nhung đỏ Giảm và Hồng trắng tinh khôi.
Ngày lễ Vu La n người ta cài lên cánh mình đóa Hồng Nhung nếu họ may mắn còn có mẹ, người mất mẹ cài đóa Hồng trắng cho mình.
Đêm tháng 7 Âm lịch. Ngày trăng thứ 14 đủ tròn và sáng để chiếu lên vạn vật. Vườn hồng nằm dưới ánh trăng vàng dịu dàng. Tia sương của đêm đọng lại lá, lên những cánh hồng. Những đóa hồng tỏa mùi thơm khắp không gian về đêm. Chỉ còn đêm nay nữa thôi, sáng mai sớm hết những thứ đóa hồng này sẽ được ngắt, để người đời dùng chúng thay cho lời tri ân với mẹ! Ngày Lễ Vu Lan.
Hồng Trắng được trồng cạnh Hồng Nhung. Hồng Trắng say sưa tận hưởng cái lạnh của sương, uống lấy từng giọt sương để khiến mình có thể rực rỡ nhất vào ngày mai. Đóa Hồng Nhung nhìn bạn đang cố gắng hết sức có thể để tăng nhựa sống cho mình, Hồng Nhung rụt rè nói với bạn:
– Hồng Trắng ơi, mai là ngày lễ Vu lan rồi, cậu có buồn không?
– Tại sao lại buồn chứ?
Gương mặt Hồng Trắng vẫn tươi tắn lạ thường. Hồng Nhung khẽ khàng:
– Tớ không biết vì sao trong ngày lễ Vu lan con người lại dùng tớ, một loài hoa hồng mang màu đỏ để dành cho những người còn mẹ trên đời. Còn cậu – loài hoa hồng trắng luôn phải dành cho những người đã mất mẹ. Có khi nào cậu thấy buồn không?
– Không đâu, tớ không phải là đại diện cho sự bất hạnh của những người mất mẹ, tớ thay họ nói lên tình yêu vô bờ bến mà họ dành cho mẹ. Họ dùng tớ để thay lời cảm ơn và thể hiện lòng kính yêu với mẹ, ngay cả khi mẹ không còn trên thế gian này nữa. Được cài trước lồng ngực của những người mất mẹ, tớ nghe được tiếng thổn thức, một nỗi xót xa trào dâng qua từng nhịp đập của con tim.
- Nhưng những người còn mẹ sẽ vui vẻ hơn những người mất mẹ vì vậy nếu được chọn cài lên ngực những người còn mẹ sẽ hạnh phúc hơn rất nhiều phải không nào? Hồng Nhung gặng hỏi bạn.
- Tôi nghĩ đến tớ khi nằm trên thăng của người khác, những người may mắn còn mẹ sẽ hiểu họ cần phải làm gì xứng đáng với ân huệ mà cuộc đời còn dành cho họ. Họ cần phải có nhiều hơn để đến một ngày nào đó khi phải cài đặt lên vũ khí, họ không cảm thấy ân hận vì mình đã không làm một người tốt. Tôi hạnh phúc khi nói thay tình yêu của những người mất mẹ và nuôi dưỡng tới những người còn mẹ. Tôi đã làm giả sứ của tình nguyên tử quý giá.
Hồng Nhung nhìn Hồng ngưỡng ngưỡng. Cả hai yên lặng hút dưỡng dưỡng từ đất và uống sương đêm để mình đẹp hơn vào ngày mai.
(Diệu Bạch St)
◊-◊—————————————– ———————-◊-◊
NĂM THÁNG DẦN TRÔINĂM THÁNG DẦN TRÔI
Thích Thiện Phước
Cuộc đời là một hành trình luôn đưa ta về phía trước, không giậm chân tại chỗ, không lùi lại phía sau, từng bước chân trải dài ấy, luôn mang theo: Ước mơ thách thức, hạnh phúc niềm đau, nụ cười tiếng khóc, thất bại thành công, nhục vinh được mất,… có người đạt được đỉnh cao của sự nghiệp một cách mau chóng dễ dàng khi còn rất trẻ, có người lận đận mãi vẫn không thành, có người thì chưa lên đến đài vinh quang thì nhìn lại đã già, hơi tàn sức kiệt, rồi phải chống chọi chịu đựng với bệnh tật, như chờ đợi đến hồi kết thúc một chuyến đi xa…
Ai cũng có một thời vẫy vùng xông pha nơi chân trời góc biển, rồi cũng có lúc phải thu mình bình lặng chốn quê nhà, vui cùng cỏ nội mây ngàn, đếm từng giọt mưa rơi như dòng thời gian của đời người đang trút xuống… trở về sống cho mình, ngồi cắt móng tay, đếm từng hơi thở, soi gương nhìn mặt mình thật kỹ thật lâu, để thấy những nếp nhăn in đậm nét phong trần, thấy mây bay cuối tận chân trời mà lòng đầy xao xuyến, bỗng quên đi bao ký ức về cuộc đời thành bại nhục vinh, đã là lữ khách trần gian thì cái gì là của họ của ta, đến lúc an lòng nhìn lại buông xuôi muôn duyên để nhẹ lòng cho một chuyến đi về…“cô đơn không hẵn một mình, một mình không hẵn cô đơn”, chim hót, lá rơi, bầu trời đầy sao đêm…chỉ một mình ta nhưng ngập tràn hạnh phúc bao la.
Mờ sáng rừng thiền chưa dọi nắng
Đêm về hoa cỏ cũng lặng yên
Từng tiếng chim kêu bình minh dậy
Sương lờ bóng nguyệt giới hương bay.
Thật ra, đời người mau chóng lắm bạn, tất cả mọi chúng ta đều sẽ có ngày ly biệt và đến điểm dừng, đó là ngày mà mình rời xa thế giới nầy, ly biệt người thân thương, mọi thứ mà ta gắn bó trân quí yêu thích rồi cũng phải buông xuôi, ta không giữ mãi những gì mình có được, mất mát, đổi thay, tàn hoại…vì thế gian là vô thường, có một thứ không bao giờ thay đổi, đó là luôn luôn thay đổi, sống ở đời đôi lúc cũng phải tuỳ duyên, thay đổi chính mình cho phù hợp với thời đại hoàn cảnh, nếu ta không thay đổi thì sẽ bị thay thế và lùi về phía sau.
Nếu biết còn vài ngày, vài giờ, vài phút giây nữa để sống, thì bạn sẽ sống như thế nào, và làm gì cho khoảng thời gian còn lại của mình?… Ai nấy đều có nỗi khổ niềm đau, vì vậy cho dù hoàn cảnh nào, ta phải sống tràn ngập tình thương yêu: Bản thân, mọi người và muôn loài, khi tình thương đủ lớn thì cánh cửa khổ đau cũng dần khép lại, xin cho đi tình thương vô hạn bằng nhiều phương diện ở trong đời.
Lạy Phật mong sao cho con và mọi người mọi loài sống an lành tự tại, như cánh hạc tung bay giữa bầu trời cao rộng thênh thang, như những đám mây nhẹ nhàng phiêu bồng cao vút chốn thiên không, như dòng nước thì thầm len lõi xuyên qua mọi ngóc ngách của vũ trụ bao la, thong dong từng bước chân đi ngang cuộc đời một cách an toàn không vướng mắc, như làn gió thổi qua những cánh đồng hoa cỏ, mang theo hương thơm vi diệu lan tỏa khắp mọi chân trời.
Thời gian của kiếp người là một nguồn tài nguyên có giới hạn, không thể tái chế, mua bán, trao đổi, tiền bạc châu báu mất đi hôm nay, ngày mai có thể tìm được, còn thời gian trôi qua rồi, sẽ không bao giờ trở lại. Món quà vô giá này, tạo hóa đã ban cho chúng ta và muôn loài đồng đều như nhau. Mỗi ngày đêm có 24 giờ đồng hồ, nhưng chúng ta sử dụng vào việc gì, đó là chuyện cá nhân của từng người…
Đời người sống vài mươi năm, thật quá ngắn ngủi so với vòng luân hồi vô tận. Mỗi một hành nghiệp của chúng ta, dù tốt hay xấu, đều ẩn tàng lý nhân quả ở đó. Vì vậy, khi được làm thân người, bạn hãy tận dụng cơ hội hiếm có nầy, cố gắng sống nhân từ, đạo đức, chân chánh, trung nghĩa, thanh cao, liêm khiết,… trải lòng yêu thương giúp đỡ mọi người.
Cuộc đời, vốn dĩ có nhiều sự bất an đau khổ, ta nên sống sao cho có ý nghĩa, mang lại niềm vui cho mình và người. Ngày ngày tu nhân tích đức, sớm sớm tinh tấn công phu, cầu mong cho mọi người hết khổ, sống đời an vui hạnh phúc trong cõi phù du mộng ảo nầy.
Tuy nhiên, cuộc đời thật tươi đẹp cho những ai sống chân thật với nó: Và vẫn còn đâu đó những khoảng trời bình yên vô hạn, những đàn cò trắng bay lượn xa xa trên cánh đồng lúa bất tận giữa buổi chiều thu nhạt nắng, những khu rừng nguyên sinh xanh thẳm bao la, những dòng sông tĩnh lặng uốn khúc êm đềm, những chú ong dễ thương chăm chỉ hút mật, những đàn bướm bay chập chờn trong vườn hoa cỏ dại khi bình minh về còn đượm thấm sương đêm….thành trụ hoại không – thế gian vô thường, sanh già bệnh chết – thân người giả tạm, xuân hạ thu đông – năm tháng dần trôi, lá rụng về cội nước chảy ra khơi, an nhiên cho một chuyến đi về,…
Thong dong ở mọi phương trời
Mây bay gió thổi mong đời an yên.
Gót chân thoát tục tuỳ duyên
Lối về hoa cỏ thiên nhiên thanh nhàn.
Nha Mân, 03/2023.
Kinh Vu Lan – Thích Thiện Phước.