Chư Đại Đức bốn pháp Ba La Di này mỗi
nửa tháng nói ở trong kinh giới chép ra.
Giới dâm thứ nhất.
Lúc Phật ở nước Tỳ Xá Ly, khi ấy ông Tu Đề Na đi xuất gia bằng lòng tin, sau trở lại làng xưa, cùng làm hạnh bất tịnh với người vợ cũ. Các Tỳ kheo biết rõ, bèn bảo: “Thầy phải nên ở trong pháp thanh tịnh của Như Lai, ở trong cảnh dục mà không nhiễm dục, đoạn trừ khát ái, phá tan hang ổ vô minh, trừ bỏ các kết sử ràng buộc, khi lòng ái dục hết thì mới chứng được diệu quả Niết Bàn. Tại sao phải làm điều nhơ nhớp như thế?”. Do đó các Tỳ kheo đem lỗi này bạch Phật, Phật liền nhóm họp chúng Tăng, biết thời nghĩa đã họp. Ông tự khai xong, Phật quở: “Việc ngươi làm là sai quấy, trái với oai nghi, chẳng phải là sa môn, chẳng phải là hạnh trong sạch, chẳng phải là hạnh tùy thuận. Đó là việc không nên làm”.
Phật bảo các Tỳ kheo: “Ta dùng vô số phương tiện nói pháp đoạn dục, vượt qua sự ràng buộc của ái dục”. Lại bảo: “Thứ dục này như lửa, như đuốc, cho đến như đao gươm”. Phật quở trách như thế xong, Ngài nói: “Đây là kẻ ngu si, gieo nhiều hạt giống hữu lậu, là người phạm giới đầu tiên. Nay ta phải kết giới, bao gồm mười nội dung:
1. Đoàn kết ở nơi Tăng.
2. Khiến cho Tăng hoan hỷ.
3. Khiến cho Tăng an lạc.
4. Khiến người chưa tin thì sanh lòng tin.
5. Khiến người đã tin thì làm cho tăng trưởng.
6. Điều thuận được những kẻ khó điều thuận.
7. Khiến người hổ thẹn được an vui.
8. Đoạn trừ nghiệp hữu lậu ở hiện tại.
9. Đoạn trừ nghiệp hữu lậu trong vị lai.
10. Khiến cho chánh pháp được tồn tại lâu dài”.
Các điều lệ của mỗi giới cũng như vậy. Những giới sau đều lược bớt, người muốn nói giới thì phải nên nói như thế.
* Nếu Tỳ kheo.
Phật dạy: Tỳ kheo có tám hạng tức là: 1/ Danh tự Tỳ kheo, 2/ Tương tợ Tỳ kheo, 3/ Tự xưng Tỳ kheo, 4/ Khất cầu Tỳ kheo, 5/ Mặc y cắt rọc Tỳ kheo, 6/ Phá kết sử Tỳ kheo, 7/ Thiện lai Tỳ kheo, 8/ Thọ đại giới bạch tứ yết ma như pháp, thành tựu được bản thể Tỳ kheo.
Trong đây, hạng Tỳ kheo thọ đại giới bạch yết ma như pháp, thành tựu được bản thể, ở trong pháp của Tỳ kheo, đó mới là Tỳ kheo đúng nghĩa.
* Cùng với Tỳ kheo.
Phật dạy: “Nếu cùng với Tỳ kheo khác thọ đại giới, bạch tứ yết ma, cho đến ở trong pháp của Tỳ kheo”. Đây chính là ý nghĩa của câu “cùng với Tỳ kheo” vậy.
* Đồng giới.
Phật dạy: “Vì các đệ tử, Ta kết giới xong, các ông thà chịu chết chớ không nên phạm”.
Đây là nói cùng một giới với các Tỳ kheo khác, đồng giới, bằng một cấp bậc giới, đó là ý nghĩa của sự “đồng giới” vậy.
* Nếu không xả giới.
Phật dạy: “Tỳ kheo nào không thích tu phạm hạnh, cho xả giới trở về nhà. Nếu họ muốn xuất gia trở lại ở trong Phật pháp tu hành phạm hạnh thì nên độ cho xuất gia, được thọ đại giới”.
Tại sao gọi là không xả giới? Nếu Tỳ kheo tự mình điên cuồng loạn tâm, đau thương khổ não, câm điếc, hoặc ở trước những hạng người ấy nói như thế, cho đến người trung quốc xả trước người biên địa, người biên địa xả trước người trung quốc thì không thành pháp xả, hoặc nói đùa, nói với người ngủ, người không biết, tự mình không nói, hoặc nói ở trước người không hiểu biết đều không thành pháp xả. Nếu nói tôi bỏ Phật, bỏ Pháp, bỏ Tăng, bỏ Hòa thượng, bỏ giới luật, tôi thọ pháp tại gia… đó mới gọi là xả giới.
* Giới kém không tự ăn năn.
Phật dạy: “Sao gọi là giới kém mà không xả giới, nếu có Tỳ kheo lòng thường lo rầu, không thích phạm hạnh, nhàm chán pháp Tỳ kheo, ý thích sống ở tại gia. Bèn nói: “Tôi nhớ cha, mẹ, vợ, con, bà con làng xóm, thành ấp, ruộng vườn, gia nghiệp, tôi muốn bỏ Phật, cho đến bỏ việc học…”
Nếu có ý niệm: “Ta nay xả giới”. Đó gọi là giới kém mà thành xả.
* Phạm hạnh bất tịnh.
Phật dạy: “Đó là pháp dâm dục. Nam thì có hai đường, nữ thì ba đường. Nếu từ đường chính mà vào đường chính, từ nơi đường chính mà vào không phải đường chính, hoặc vào có giới hạn, vào hết, cho đến vào chừng đầu sợi lông đều phạm tội Ba La Di”.
* Cho đến cùng súc sanh.
Phật dạy: “Những chỗ có thể hành dâm được, có ba đối tượng để hành dâm:
1/ Người, 2/ Phi nhơn, 3/ Loài súc sanh
Lại có năm đối tượng: 1/ Phụ nữ, 2/ Đồng nữ, 3/ Hai hình, 4/ Huỳnh môn, 5/ Người nam.
Nếu Tỳ kheo có tâm dâm dục tiếp xúc với hai chỗ, ba chỗ của đối tượng, hễ vừa vào là phạm cho dù có vật cách cũng phạm. Nếu tiếp cận với người ngủ, người chết chưa hoại, hoặc chỉ hoại ít phần, ở ngay nơi hai chỗ hoặc ba chỗ mà hành dâm, vừa vào liền phạm.
Nếu nói rộng ra thì: Như có Tỳ kheo nào bị kẻ oan gia ép đem đến đối tượng hành dâm, cưỡng ép (đem nam căn) để vào hai chỗ hoặc ba chỗ. Khi vừa vào hễ có cảm giác thích thú thì phạm, còn không thích thú thì không phạm. Cho dù có vật cách hay không có vật cách, tội cũng giống như trên.
Nếu thầy Tỳ kheo bị kẻ oán tặc ép buộc bắt phải làm việc bất tịnh, (với đối tượng) dù có thích thú hay không thích thú, có vật cách hay không có vật cách tội cũng đồng như trên”.
* Tỳ kheo đó phạm giới Ba La Di.
Phật dạy: “Ví như người bị chặt đứt đầu không thể sống lại được. Tỳ kheo cũng thế, người phạm pháp này không thể thành tựu lại pháp Tỳ kheo. Cho nên gọi là Ba La Di”.
Nếu phương tiện muốn làm việc bất tịnh, hễ thành thì phạm Ba La Di, không thành thì phạm Thâu Lan Giá. Nếu bảo Tỳ kheo khác làm, Tỳ kheo ấy làm người dạy phạm tội Thâu Lan Giá, không làm người dạy phạm tội Đột Kiết La. Ngoài Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni ra các chúng khác dạy bảo nhau, cho dù làm hay không làm đều phạm tội Đột Kiết La. Nếu tử thi hoại nửa phần, hoặc tất cả đều hoại, hoặc ở kẽ hở của xương, hoặc hang đất, lỗ bùn, làm việc bất tịnh vào những nơi ấy đều phạm tội Thâu Lan Giá. Hoặc đường chính tưởng là đường chính, hoặc còn ngờ vực, hoặc tưởng chẳng phải là đường chính thì đều phạm tội Ba La Di. Nếu chẳng phải là đường chính mà tưởng là đường chính, hoặc còn nghi ngờ, đều phạm tội Thâu Lan Giá, Tỳ kheo Ni phạm Ba La Di, Thức Xoa Ma Na, Sa Di, Sa Di Ni, phạm tội Đột Kiết La diệt tẩn, thế gọi là phạm.
Không phạm:
Nghĩa là khi ngủ không hay biết, không thích thú, hoàn toàn không có ý dâm dục, lúc đầu tiên Phật chưa chế giới, kẻ si mê điên cuồng, tâm rối loạn, bị các thứ đau thương khổ não ràng buộc thì không phạm.
* Không được ở chung.
Phật dạy: “Có hai hạng người được ở chung:
1/ Cùng làm một pháp yết ma.
2/ Cùng một chỗ thuyết giới”.
Vì không được ở trong hai việc này cho nên gọi là “không được ở chung”.
Giới trộm thứ hai.
Phật ở thành La Duyệt Kỳ, Đàn Ni Ca đang ở chốn nhàn tĩnh, toạ thiền trong ngôi nhà tranh nhưng bị người dở, bèn làm ngôi nhà bằng đất nung, Phật sai chúng Tăng đập phá. Sau thầy nói gạt người giữ gỗ là do vua bảo đốn lấy những thứ cây mà nhà vua cần, bị vua, đại thần, nhơn dân quở trách, không cho vào trong xóm, lại chẳng được an vui mà ở. Tỳ kheo mới đem lỗi này bạch Phật, Ngài nhân việc trên chế giới.
* Nếu Tỳ kheo.
Nghĩa giống như trên.
* Ở trong xóm làng:
Thôn có bốn loại:
1/ Xung quanh có tường.
2/ Có hàng rào.
3/ Có hàng rào và tường nhưng không giáp.
4/ Xung quanh đều có nhà.
* Hoặc ở chỗ nhàn tĩnh.
Tức là nơi vắng lặng ngoài thôn xóm. Chỗ tức là ở trong đất, trên đất, hoặc chở, hoặc gánh, hoặc ở trên không, hoặc ở trên sào, hoặc ở trong xóm, hoặc chỗ vắng vẻ, trong ruộng, chỗ mình ở…, trong thuyền, trong nước, lén qua cửa ải không đóng thuế, hoặc lấy đồ vật của người khác gởi, hoặc lấy nước, cành cây chà răng, cây cỏ trong vườn, trái cây ở trong vườn, chúng sanh không chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân, của cải do mưu sinh chung, giao kèo với người, trông chừng, giữ gìn, gác đường. Đó gọi là chỗ vậy.
` Không cho.
Là người khác không bỏ. Nếu tưởng vật của người khác, tưởng vật của người khác giữ gìn, tưởng có chủ, vật chẳng phải của mình chẳng được tạm dùng, chẳng được đồng ý.
* Lấy bằng tâm trộm.
Tức có tâm cướp đoạt, có năm loại:
1/ Tâm đen tối.
2/ Tâm tà
3/ Tâm lệch lạc.
4/ Tâm sợ hãi.
5/ Thường có tâm trộm của người khác.
Lại có năm cách lấy:
1/ Quyết định lấy.
2/ Sợ hãi lấy.
3/ Vật gởi lấy.
4/ Thấy liền lấy.
5/ Ỷ vật gởi lấy.
Hoặc nương vào sức cưỡng ép của bà con, bè bạn, hoặc dùng ngôn từ để biện nói, hoặc làm cuồng mê lấy.
* Theo pháp không cho mà lấy.
Căn cứ theo pháp vua lập ra, hoặc lấy năm tiền, lấy vật trị giá năm tiền, mắc tội đáng chết. Phật theo phép vua mà chế, hễ trộm đủ thì phạm tội nặng.
* Hoặc bị vua.
Vua là người được tự tại, không bị lệ thuộc ở kẻ khác.
* Đại thần của vua.
Tức các vị đại thần giúp vua.
* Hoặc bị bắt, bị giết, bị trói buộc, đuổi ra khỏi nước, mắng rằng: “Ngươi là giặc, ngươi là kẻ si mê, ngươi không có sự hiểu biết”. Tỳ kheo ấy phạm tội Ba La Di.
Tỳ kheo nghĩa như trên. Lấy được vật ở các nơi. Trộm đáng giá năm tiền, hoặc hơn năm tiền phạm tội Ba La Di. Nếu phương tiện lấy phạm Thâu Lan Giá… hoặc lấy ít hơn năm tiền, phạm tội Thâu Lan Giá, còn lấy mà không được, phạm tội Đột Kiết La. Dạy người trộm lấy, nếu người kia lấy được vật thì đều phạm tội Ba La Di. Người nhận lời đi lấy mà lấy nhầm vật khác, hoặc lấy vật ở chỗ khác, người lấy phạm trọng tội Ba La Di, người dạy phạm tội Thâu Lan Giá. Nếu người lấy được vật mà người bị sai không có tâm trộm thì người bảo đó phạm tội Ba La Di, người bị sai không phạm. Nếu sai người lấy vật, mà người bị sai biết là lấy trộm, người nhận lời sai phạm tội trọng, người dạy bảo không phạm. Có chủ mà tưởng có chủ phạm tội trọng, hoặc nghi ngờ phạm Thâu Lan Giá. Vật không có chủ mà tưởng có chủ, hoặc nghi ngờ có chủ phạm Thâu Lan Giá.
Tỳ kheo Ni… bốn chúng thể thức phạm đều như giới trên.
Không phạm:
Tưởng là của người cho mà lấy, tưởng là của mình có, tưởng là đồ vất bỏ, tưởng lấy tạm thời, tưởng là thân thiết.
* Không được ở chung.
Ý nghĩa giống như đã giải thích ở trên.
Giới sát thứ ba.
Phật ở thành Tỳ Xá Ly, nói cho các Tỳ kheo nghe về pháp quán thân bất tịnh, các thầy Tỳ kheo tập định xong liền nhàm chán thân mạng, khen chết, khuyên chết. Khi ấy Tỳ kheo Nan Đề nhận làm người giết thuê, cư sĩ thấy vậy khiếp sợ. Sau Phật biết việc này liền nói pháp thiền định, hàng Tỳ kheo nương theo đây tu tập, đều chứng (đắc pháp tăng thượng thù thắng an trụ nơi quả chứng). Nhân đây Thế Tôn quở trách lỗi lầm trên, và chế ra giới này.
* Nếu Tỳ kheo cố tự tay mình đoạn mạng người.
Nghĩa là làm việc giết hại vậy. Nếu như tự mình giết, dạy người giết, sai người giết sai đến chỗ nầy chỗ kia giết, sai nhiều lần, lần lựa sai nhiều người giết, cầu người nam giết, dạy người cầu người nam giết, cầu người cầm dao giết, hoặc bảo người tìm người cầm dao giết, hiện ra thân tướng, hoặc miệng nói, hoặc thân miệng đều biểu hiện ra tướng, hoặc xúi người sứ khen ngợi, hoặc sai đưa thư, hoặc dạy người đưa thư, hoặc đào hầm khiến cho họ sụp, gài bẫy, cho uống thuốc độc, để khí cụ giết hại, cho đến dùng các phương tiện giết khác.
* Mạng người.
Từ khi thần thức mới gá vào thai, cho đến thức cuối cùng làm gián đoạn mạng sống ấy.
* Cầm dao đưa cho người khen ngợi cho chết, khuyên vui cho chết. Ôi chao! Nam tử, ngươi làm việc ác như thế sống làm gì thà chết đi chớ không nên sống, khởi lòng nghĩ như thế, bằng nhiều phương tiện khen ngợi cho chết, khuyên vui cho chết Tỳ kheo đó phạm Ba La Di.
Dùng các thứ phương tiện giết người như trên, nếu không chết thì phạm tội Thâu Lan Giá. Nếu giết phi nhơn, hoặc súc sanh có hiểu biết tiếng người, hoặc có thể biến hình, dùng phương tiện giết đều phạm tội Thâu Lan Giá. Nếu không chết phạm tội Đột Kiết La. Nếu giết súc sanh không thể biến hình, phạm Ba Dật Đề. Nếu thật là người tưởng là người phạm tội Ba La Di, chẳng phải người mà tưởng, nghi là người phạm Thâu Lan Giá. Trường hợp phạm giới đối với bốn chúng sau cũng giống như trên.
Không phạm:
Do ném dao, gậy, ngói, đá trúng nhầm người chết, việc xây dựng phòng nhà vô tình làm rơi gỗ đá chết người. Nâng đỡ đem người bệnh vào phòng qua lại, tất cả không có tâm hại mà họ bị chết.
- Không được ở chung.
Giới nói dối thứ tư.
Phật ở thành Tỳ Xá Ly, nhằm lúc ngũ cốc khan hiếm, khất thực khó được, hàng Tỳ kheo an cư bên sông Bà Cừu, bèn tự khen ngợi nhau được pháp của bậc thượng nhơn làm cho cư sĩ có lòng tin giảm bớt phần ăn của mình để cúng dường. Về sau qua chỗ Phật, nhân lúc hỏi thăm Ngài quở trách chế giới.
* Nếu Tỳ kheo thật không hiểu biết.
Nghĩa là thật không có tri kiến về chánh pháp.
* Tự khen rằng tôi đã được pháp của bậc thượng nhơn.
Tự khen nói mình có tín, giới, thí, văn, trí huệ biện tài hơn người. Pháp của người là: ấm, giới, nhập. Pháp của bậc thượng là thành tựu được pháp vượt khỏi sanh tử.
* Đã vào pháp thánh trí thù thắng.
Tự nói có niệm tại thân, hoặc nhớ nghĩ đúng đắn, hoặc tự nói kiên trì tịnh giới, hoặc tự nói có dục, hoặc không phóng dật, hoặc tinh tấn, hoặc được thiền định, hoặc được chánh thọ, hoặc có đạo, hoặc có tu, hoặc có huệ, hoặc tự nói có kiến (thấy khổ, tập, diệt, đạo), hoặc tự nói có chỗ đắc, hoặc tự nói có quả vị.
Tôi biết thế, tôi thấy thế.
Hoặc nói tôi được trời, rồng, quỉ thần đến cúng dường, hoặc tự nói được pháp quán bất tịnh, được tứ thiền, tứ không định…
* Tỳ kheo đó ở thời gian khác nếu có người hỏi hay không hỏi muốn cho mình thanh tịnh nên tự nói thế nầy: “Tôi thật không biết, không thấy mà nói biết nói thấy”.
Ý muốn đem lời sau để sám hối lời trước, dùng lời chơn thật để thay đổi thành hư dối, do miệng tạo nghiệp, nói rõ ràng thì mắc trọng tội.
* Trừ người Tăng thượng mạn.
Tỳ kheo có tâm ngã mạn, tự bảo rằng tôi đã đắc đạo, về sau nhờ siêng năng tinh tấn chứng được quả tăng thượng, Tỳ kheo sanh lòng ngờ vực bạch Phật. Phật liền dạy kẻ Tăng thượng mạn thì không phạm.
* Tỳ kheo đó phạm tội Ba La Di.
Nếu Tỳ kheo thốt ra lời hư dối như thế mà nói với người. Nói trước người có sự hiểu biết thì phạm Ba La Di, nói trước người không biết thì phạm Thâu Lan Giá, hoặc dùng tay ra dấu, sai bảo người khác nói, gởi thơ, hiện tướng cho họ biết, nếu người biết thì phạm Ba La Di. Còn nói với loài súc sanh không thể biến hình, phạm tội Đột Kiết La. Bốn chúng sau như đã nói trên.
Không phạm:
Tăng thượng mạn, do nghiệp báo được, không nói ta được, bỡn cợt nói, vì bệnh nói, nói ở chỗ khuất, hoặc muốn nói chuyện này nhưng nhầm sang chuyện kia.
` Không được ở chung.
Chư Đại Đức tôi đã nói bốn pháp Ba La Di. Nếu Tỳ kheo nào phạm mỗi một tội Ba La Di thì không được ở chung với các Tỳ kheo. Dù trước hay sau cũng như thế, Tỳ kheo đó phạm tội Ba La Di, không được ở chung. Bây giờ xin hỏi chư Đại Đức trong bốn tội này có thanh tịnh không? (nói ba lần). Chư Đại Đức trong đây thanh tịnh vì im lặng, việc nầy xin ghi nhận như vậy.
—————————————————————