Thứ 7, ngày 15 tháng 2 năm 2025
MỪNG XUÂN DI LẶC ẤT TỴ - 2025 . KÍNH CHÚC CHƯ TÔN ĐỨC TĂNG NI, PHẬT TỬ VÔ LƯỢNG AN LẠC, VẠN SỰ HANH THÔNG, CÁT TƯỜNG NHƯ Ý.

Lời tựa giới kinh

LỜI TỰA(1)

BỘ HÀM CHÚ VỀ

GIỚI BỔN LUẬT TỨ PHẦN (2)

Đời Đường, núi Chung Nam Thái Nhất(3) Sa Môn Đạo Tuyên (4) soạn.

Bộ Tứ Phần(5) Giới Bổn này chính là con đường chung mở bày ra muôn hạnh, là khuôn phép chính dẫn dắt ba thừa. Từ khi đấng Pháp vương thị hiện ra đời làm lợi ích chúng sanh(6), giảng dạy chánh giáo cứu giúp kẻ có nhân duyên, giới luật chính là nấc thang cần thiết để bước lên quả Phật.

Thương cho kẻ phàm phu căn kém lặn hụp mãi trong sông mê, Ngài mới mở toang cánh cửa giải thoát, chỉ bày giáo pháp sâu xa mầu nhiệm, giương cao học thuyết vô vấn, ngõ hầu hiển rõ bến bờ cho người mới học. Từ nơi cảnh tịnh mà giảng dạy nguồn giáo, Ngài nhóm họp chúng Tăng tuyên thuyết huyền phạm. Trước nêu rõ lý do, trình bày công khơi mở; sau tuần tự kể phần tông chỉ, trùm khắp các căn, tùy thời phu diễn, là con đường chung để noi theo, làm cho mọi người khi nghe qua đều được thanh tịnh. Chánh pháp nhờ đây mà tồn tại lâu dài. Bởi vì, thời đã đến mà không lo tranh thủ tu tập thì thật luống uổng, cứ để tình thức mãi buông trôi theo trần cảnh.

Kinh nêu trưởng giả mộng thấy tấm vải nỉ(7); Luật dẫn câu chuyện cây gậy vàng bị gãy(8). Cho nên giáo bị lệ thuộc theo văn, lý theo tình mà thay đổi. Sự bất đồng giữa hai bộ(9), năm bộ(10) thênh thang như mây bay; khác nhau giữa mười tám bộ(11), năm trăm bộ(12) chồng chất như núi cả. Nếu chấp lấy hết những điều ở thời nguyên thủy thì đâu không bị kẹt nơi tình; nhưng suy xét đến tận cùng chỗ dung hội của tâm linh thì đều thông cả chánh nghiệp.

Mãi đến cuối đời Tào Ngụy, giới bổn mới rạng rỡ lưu truyền, rốt đến đầu đời Tùy mới sửa đổi lược bỏ rất nhiều, hoặc nương theo Phạn bổn, hoăc viết lối Lệ thư, hoặc truy tìm nghĩa lý, hoặc y cứ nhân duyên, hoặc so sánh nhiều thuyết đến nỗi trở thành mờ tối, lạm dối các bậc tiên giác, che mờ những kẻ hậu học. Phạn bổn thì ý chỉ lời văn(13) trái nhau, từ ngữ thì chưa được dung hợp. Nếu căn cứ theo luật thì theo quan điểm của tông phái mình, nhưng phần hình thức chưa được trọn vẹn. Tuy có tìm tòi hiểu sâu về nghĩa lý, nhưng chưa bàn rõ được đầu mối; còn căn cứ theo duyên thì dường như đã bủa khắp, vậy mà vẫn còn kiến chấp cục bộ.

Vả chăng, chánh thì nói rõ giới ngăn, chỉ có Phật mới chế khai, các bậc hiền thánh đều lặng yên, chỉ biết vâng làm. Thế nên chỗ bàn trong Luật Luận, đều y cứ vào bổn kinh, vốn chẳng lập riêng khác, chưa từng so sánh, nêu chung các chổ thấy nghe, kiến giải của tông sư rất nhiều. Nghĩ rằng khảo đính duyên xưa, nhưng chưa rảnh rỗi. Nay đem giới bổn lược phần rườm rà, nghĩa ẩn văn hẹp. Dùng thì mất nghi cách, còn bỏ thì mất căn cứ. Nếu không nêu rõ tướng trạng thì người khó căn cứ đầy đủ. Đạo Tuyên tôi từ bé đã ngưỡng mộ đạo huyền, chí cầu phạm hạnh. Trước đã từng ở cửa khuyết(14) giảng bày, khép mình học hỏi nhiều năm tìm tòi, đâu không từng say sưa trong văn chương sách vở, âu cũng nhờ đây mà thu thập(15) được.

Đến năm Canh Dần, niên hiệu Trinh Quán thứ tư (630). Tuyên tôi chu du khắp chốn, bàn luận nhiều về Luật Tông, nhận thấy lời tụng còn ngổn ngang nhưng chưa thể nghĩ đến việc mở mang rộng rãi. Nói suông thì có đấy, còn việc ứng dụng thì không biết cách nào!. Vừa trùm khắp năm thiên(16) bảy tụ(17) nhưng phí công chấp ở đầu một chữ. Chỉ kể ra lẽ cốt yếu của việc hành tàng, hầu khơi bày nguồn tâm chơn chánh. Hỏi đến thì đem sự hưng phế của giới luật, nương theo lời sớ giải, còn ước theo tình thì thông suốt, vốn có căn cứ, nhưng thử hỏi không có văn từ thì lấy chi để nương tựa?. Chỉ có người học rộng mới biết danh hạnh đều bày, nhưng thần dụng chẳng theo mực thước. Nếu chuộng lấy tình thì trái với phép trời, vì thế lòng tôi cứ nao nao!. Như vậy ý nghĩa phải nên theo pháp mà đính chính lại thì sự tranh luận ấy tự nhiên chấm dứt, cần gì phải lắm lời?

Nay thử nương theo bổn luật, chép đủ chánh kinh vẫn theo lý Phật, liền soạn lời chú. Văn tuy chỉ có một quyển nhưng không khác sự lưu truyền xưa, phần trì phạm đều nêu ra rõ ràng, nay khác hơn xưa, ngõ hầu khiến cho kẻ sơ cơ hậu bối đều học được, ngu trí thảy noi theo. Kẻ hiểu biết sơ sài thì đủ ba loại trì luật; người tinh luyện thì cùng một thầy giáo hóa, đem việc nầy ra để tìm cầu, giúp thành cao tột. Lại đem các duyên khởi của giới, vọng nói nguồn cơn. Nếu không xét soi tường tận thì trở thành hư dối. Thế nên tùy theo loại giới mà dẫn ra, lược bớt chỗ rườm rà thêm vào phần quan trọng. Khiến cho hiển tướng thông khắp, khinh trọng rõ ràng, đủ để đượm thấm thân mình, rạng ngời đức hạnh; đủ để hộ trì chánh pháp, cứu giúp cho đời. Dùng văn nhưng không lệ thuộc sự sai lầm ở nơi văn; nghĩ đến nghĩa đúng thì không vướng vào nghĩa khác. Há ngay nơi mình sao không còn bị sai sót lầm lỡ, cũng gồm giúp những người có nhân duyên. Cho nên mới viết lời tựa nầy vậy.

Chú thích:

(1) Tự (序): Lời tựa, lời đầu sách cũng có khi viết là (敘); lời đầu sách gọi là “Tự” cuối sách gọi là “Bạt”.

(2) Tứ Phần Luật Hàm Chú Giới Bổn: Còn gọi là Tứ Phần Luật Tỳ kheo Hàm Chú Giới Bổn, Tứ Phần Hàm Chú Giới Bổn, được ngài Đạo Tuyên trước thuật xong vào năm Trinh Quán thứ 8 (634).

(3)   Thái Nhất sơn: Cũng gọi là “Chung Nam Thái Nhất sơn”. Hán thư chép: “Thái Nhất sơn, theo văn xưa thì là núi Chung Nam, tức hai tên đều chỉ chung cho một ngọn núi. Nhưng có thuyết khác nghi rằng Thái Nhất là tên của một ngọn núi khác, cho dù chung hay riêng gì thì cũng gọi là “núi Chung Nam Thái Nhất” nào có liên can gì”? Đây chính là nơi cư ngụ của ngài Đạo Tuyên vậy.

 

 

(4) Đạo Tuyên: Tức là ngài Đạo Tuyên luật sư (596-667), còn gọi Nam Sơn Luật Sư, Nam sơn Đại Sư, là một Tăng nhân Trung Quốc đời nhà Đường.

Ngài họ Tiền tự Pháp Biến nguyên quán ở Ngô Hưng nay thuộc vùng Hồ Châu, tỉnh Chiết Giang (có thuyết nói ngài quê ở Đan Đồ, Nhuận Châu, Giang Tô) là vị Tổ khai sáng ra “Nam Sơn Luật Tông” ở Trung Quốc.

Xuất thân trong gia đình quan lại, cha từng làm Lại Bộ Thượng Thư triều nhà Trần. Năm 10 tuổi Đạo Tuyên từ bỏ gia đình lên kinh đô Trường An học đạo ở chùa Nhật Nghiêm.

Năm 16 tuổi thế phát xuất gia, năm 20 tuổi thọ cụ giới, học Luật suốt 10 năm, bôn ba khắp nơi tìm minh sư tham vấn. Vì chuyên nghiên cứu và hoằng truyền Luật Tứ Phần, nên Tông phái của Ngài xưng là “Nam Sơn Luật Tông”. Ngài diễn giảng Luật học ở khắp mọi nơi và đã từng tham dự vào dịch trường của pháp sư Huyền Tráng, nghiêm giữ giới luật, thâm nhập Thiền na. Ngài ở qua các chùa như: Sùng Nghĩa, Phong Đức, Tịnh Nghiệp.

Năm Hiển Khánh thứ 3 (658) Ngài phụng sắc đến trụ trì chùa Tây Minh tại kinh đô Trường An.

Tháng 2 năm Càn Phong thứ 2, Ngài sáng lập ra giới trường ở chùa Tịnh Nghiệp, Tăng chúng các nơi đến cầu thọ giới hơn 20 người.

Vào tháng 10 Ngài thị tịch, thọ 72 tuổi, trải qua 52 mùa an cư kết hạ và được vua ban thụy hiệu là “Trừng Chiếu”.

Ngài trước thuật những bộ như: Tứ Phần Luật San Phồn Bổ Khuyết Hành Sự Sao – 12 quyển, Yết Ma Sớ – 3 quyển, Giới Bổn Sớ – 6 quyển, Thập Tỳ Ni Nghĩa Sao 6 Quyển, Tỳ Kheo Ni Nghĩa Sao – 6 quyển (lại xưng là Luật Học Ngũ Đại Bộ).

Ngoài ra, Ngài còn soạn: Đại Đường Nội Điển Lục – 10 quyển, Quảng Hoằng Minh tập – 30 quyển, Tục Cao Tăng Truyện – 10 quyển, Thích Thị Lược Phổ, Thích Ca Phương Chí, Tam Bảo Cảm Thông Lục…

(5) Tứ phần: Tức chỉ cho Tứ Phần luật toàn bộ nội dung được chia làm 4 phần, gồm có 60 quyển do hai Tôn giả Trúc Phật Niệm và Phật Đà Da Xá cùng dịch tại kinh đô Trường An (410 – 412) vào đời Diêu Tần.

Phần thứ 1: Bao quát chung về 250 giới Tỳ kheo có 20 quyển.

Phần thứ 2: Bao quát chung về 348 giới Tỳ kheo Ni các kiền độ thuyết giới, thọ giới, an cư, tự tứ, bốn kiền độ, có 15 quyển.

Phần thứ 3: Bao quát về pháp tự tứ, bì cách, y dược, y Ca Thi Na, Câu Diệm Di, Chiêm Ba, ha trách, nhơn, phú tàng, phá Tăng, diệt tránh, tỳ kheo Ni, 15 kiền độ, có 14 quyển.

Phần thứ 4: Bao quát về phòng xá kiền độ, tạp kiền độ, ngũ bách kết tập, thất bách kết tập pháp, điều bộ Tỳ Ni, Tỳ Ni Tăng Nhất có 11 quyển.

(6) Lợi hiện: Tức vì lợi ích chúng sanh mà thị hiện ra đời, chữ kiến (見) đọc là hiện. Trong lời tựa bộ Yết Ma Chỉ Nam có câu: “Cố ngã tiên Phật giác hoàng thừa thời lợi hiện, biến phó quần cơ thỉ chung diễn dương” (Cho nên đức Thế Tôn tùy thời mà thị hiện để làm lợi lạc hữu tình, độ khắp chúng sanh trước sau nêu bày pháp mầu vô thượng).

(7) Kinh trần mộng chiên chi trưng (Kinh nêu trưởng giả mộng thấy tấm vải nỉ): Xuất Tam Tạng Ký Tập dẫn: “Lại nữa kinh Nhân duyên chép lúc Phật tại thế, có một trưởng giả, mộng thấy tấm vải nỉ trắng bổng dưng bị đứt thành năm mảnh, ông sợ hãi đến chỗ Phật hỏi duyên cớ. Phật dạy: Sau khi ta diệt độ, luật tạng sẽ chia làm năm bộ”(Hựu hữu Nhân Duyên Kinh thuyết: Phật tại thế thời hữu nhất trưởng giả, mộng kiến nhất bạch chiên hốt nhiên tự vi ngũ đoạn. Kinh nghệ Phật sở, thỉnh vấn kỳ cố. Phật ngôn: Thử nãi ngã diệt độ hậu, luật tạng đương phân vi ngũ bộ).

Trong luật cũng nêu một câu chuyện truyền thuyết tương tự: Sau khi Đức Phật thành đạo 38 năm, một hôm Ngài cùng chư tỳ kheo đến cung vua thọ trai. Sau đó Ngài bảo Tôn giả La Hầu La rửa bát, Tôn giả vì sơ ý nên làm rơi bình bát và bị vỡ thành năm mảnh. Chư tỳ kheo lấy làm lạ bèn bạch Phật. Phật dạy: “Sau khi ta diệt độ hơn 100 năm, các tỳ kheo sẽ giáo pháp ta thành năm bộ phái”.

(8) Luật thơ phân trượng chi dụ (Luật dẫn câu chuyên cây gậy vàng): Luật chép: Có hai tỳ kheo ở nước Câu Thiểm Tỳ đấu tranh nhau, sau đó họ đến nước Xá Vệ. Các Ưu Bà Tắc hỏi Phật: Chuyện đã xảy ra như vậy thì con làm thế nào để bố thí cúng dường? Phật dạy: Nên chia ra làm hai phần. Bởi vì kia cũng là Tăng, đây cũng là Tăng. Ví như cây gậy vàng chia làm hai phần thì cả hai đều là vàng vậy.

Kinh Nhân Duyên chép: Vua Tần Bà Tỳ La mộng thấy cây gậy vàng bị chặt làm 18 đoạn, ông vô cùng hoảng hốt đến bạch Phật. Đức Phật dạy: Sau khi ta diệt độ hơn 100 năm, các Tỳ Kheo sẽ chia rẽ thành 18 nhóm, tuy chia riêng biệt nhưng nẻo đến cửa giải thoát vẫn là một thôi! (Lược dịch từ Nam Sơn Luật học Đại từ Điển tr.1129 dòng 17a – 6b)

(9) Nhị bộ: Căn Bản bộ và Đại Chúng bộ.

(10)  Ngũ bộ:

1/ Đàm Vô Đức (40 hoặc 45 quyển) đời Lương gọi là Pháp Cảnh, có một âm nữa là Đàm Ma Cúc Đa, tức Luật Tứ Phần. 2/ Tát Bà Đa (61 quyển) đời Lương gọi là Nhất Thiết Hữu, tức Luật Thập Tụng. 3/ Ca Diếp Di (chưa rõ số quyển) còn gọi là Ca Diếp Tỳ bộ nầy chư truyền đến đất Lương. 4/ Di Sa Tắc (34 quyển) tức Luật Ngũ Phần. 5/ Bà Thô Phú La (40 quyển) tức luật Ma Ha Tăng Kỳ.

(11) Thập bát bộ: Bộ Tát Bà Đa chia ra Bà Ta bộ, Bà Ta lại chia thêm ba bộ: 1.Pháp Thạnh, 2. Danh Hiền, 3. Lục Thành. Tổng cộng thành năm bộ. Bộ Ca Diếp Di chia thành hai: 1. Tăng Già Đề, 2. Thiển Ma Đề. Tổng cộng là ba bộ. Bộ Di Sa Tắc chia ra một bộ là Trung Gian Kiến. Tộng cộng thành hai. Bộ Ma Ha Tăng Kỳ chia thành sáu: 1. Di Tích, 2. Di Sa, 3. Thi Thiết, 4. Tỳ Đà, 5. Thi La, 6. Thượng Thi La. Tổng cộng là bảy bộ. Bộ Đàm Vô Đức không chia. (Theo quyển 3 – Xuất Tam tạng Ký Tập)

(12) Năm trăm bộ: Sách Hành Tông Sớ Ký chép: “Phật pháp 500 năm sau, mỗi mỗi đều có sự sai khác và chia thành 500 bộ phái, nhẫn đến chấp chặt vào ngôn ngữ, nghe thuyết Bát Nhã tất cánh không, như gươm đao làm tổn hại tim mình, vì vậy không còn thích nghe nữa vậy” (lược dịch từ Nam Nam Sơn Luật Học Từ Điển. Quyển thượng, tr 186 – trung).

(13) Văn chỉ: Tức lời văn và ý chỉ, ta còn thấy từ “văn chỉ” nầy ngài Đạo Tuyên dùng trong Lời Tựa Hoằng Truyền Kinh Diệu Pháp Liên Hoa: “Tam kinh trùng đạp, văn chỉ hỗ trần” (Cả ba bổn phần nhiều có sự trùng lắp, lời văn ý chỉ thảy đều phô bày và hỗ tương nhau).

(14) Đế kinh (cửa khuyết): Hay cò gọi là “Đế đô, kinh đô, kinh thành, kinh sư”.

Bài thơ Tỳ bà Hành của Bạch Cư Dị có câu:

Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân

Tương phùng hà tất tằng tương thức!

Ngã tòng khứ niên từ “đế kinh”

Trích cư ngọa bệnh Tầm Dương thành.

Tạm dịch:

Ta cùng luân lạc chốn chân trời

Nhớ ngày quen trước dạ nào vơi

Rời xa kinh khuyết từ năm ngoái

Tầm Dương giáng chức lệ sầu rơi.

– Kỳ cư kinh sư thời, đa dữ thiền môn kỳ túc đạo giao. (Khi vương Cổ lúc còn làm quan ở kinh thành, ông thường làm bạn đạo với các bậc kỳ túc trong chôn Thiền môn. (Nguyên Hựu Đảng Nhân truyện Q 4).

(15)  Uẩn kết: Tức là chứa nhóm, kết tập. “Uẩn kết Đại Hạ, xuất bỉ thiên linh” (Bổn Kinh nầy được kết tập tại nước Đại Hạ, có đến 1000 năm) – “Lời tựa Hoằng Truyền Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”.

(16) Năm thiên: 1/ Ba La Di, 2/ Tăng Tàn, 3/ Ba Dật Đề, 4/ Đề Xá Ni, 5/ Đột Kiết La.

(17)  Bảy tụ: 1/ Ba La Di, 2/ Tăng Tàn, 3/ Thâu Lan Giá, 4/ Ba Dật Đề, 5/ Đề Xá Ni, 6/ Ác Tác, 7/ Ác Thuyết.

————————————————————————–

 

10.Bộ hàm chú về Giới Bổn Luật tứ phần
530166
Total Visit : 428478