Chùa Hội Phước/Tu Sach Item/LUẬN VỀ NGƯỜI TU THEO PHÁP MÔN NIỆM PHẬT, KHI LÂM CHUNG CÓ ĐƯỢC VÃNG SANH KHÔNG?
LUẬN VỀ NGƯỜI TU THEO PHÁP MÔN NIỆM PHẬT, KHI LÂM CHUNG CÓ ĐƯỢC VÃNG SANH KHÔNG?
LUẬN VỀ NGƯỜI TU THEO PHÁP MÔN NIỆM PHẬT, KHI LÂM CHUNG CÓ ĐƯỢC VÃNG SANH KHÔNG? Sách: 9.4.Hành trang cho ngày cuối
LUẬN VỀ NGƯỜI TU THEO PHÁP MÔN NIỆM PHẬT, KHI LÂM CHUNG CÓ ĐƯỢC VÃNG SANH KHÔNG?
Phật Thích Ca Mâu Ni nói kinh A Di Đà ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Ngài khen ngợi y chánh trang nghiêm nơi thế giới Tây Phương Cực Lạc, khuyên chúng sanh nên phát nguyện vãng sanh.
Kinh chép: “Như ta nay khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn của Phật A Di Đà thì tại phương Đông có Phật A Súc Bệ… phương Nam có Phật Nhật Nguyệt Đăng… phương Tây có Phật Vô Lượng Thọ… phương Bắc có Phật Diệm Kiên… phương hạ có Phật Sư Tử… phương thượng có Phật Phạm Âm… cùng hiện ra tướng lưỡi rộng dài, nói lời thành thật. Chúng sanh các ngươi phải tin kinh này có công đức không thể nghĩ bàn và được tất cả chư Phật hộ niệm”.
Vãng sanh về nước Tây Phương Cực Lạc là một nhân duyên lớn, chư Phật ở sáu phương cùng khen ngợi. Hễ người có lòng tin, phát nguyện niệm Phật cầu sanh về thế giới Cực Lạc thì nhất định được vãng sanh. Lý thật, sự thật, nên tin chắc.
HỎI: Nói rằng người niệm Phật, ai ai cũng được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, nhưng tôi thấy rất nhiều người xuất gia, tại gia thường ngày ăn chay niệm Phật cầu sanh Tây phương, vậy mà đến lúc lâm chung thì mê muội tán loạn, rất ít người thật sự vãng sanh. Tại sao lại như thế?
ĐÁP: Những người ấy do lúc lâm chung không có đầy đủ nhân duyên. Nếu lúc lâm chung được đầy đủ nhân duyên thì mười người tu vãng sanh được mười người, trăm người tu được vãng sanh trăm người, ngàn vạn người tu được vãng sanh ngàn vạn người.
HỎI: Thế nào là nhân duyên?
ĐÁP: Người tu hành lúc bình sanh phát lòng tín nguyện chân thật niệm Phật cầu sanh Tây phương, đến lúc lâm chung cũng tín nguyện niệm Phật giống như thường ngày. Tâm niệm đó chính là nhân tự lực. Nếu như thường ngày chưa biết tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây phương, đến lúc lâm chung được bạn bè thân thích hướng dẫn khiến sanh lòng tín nguyện cầu sanh Tây phương, đây là tâm tín nguyện cầu sanh và cũng là nhân tự lực. Giáo chủ A Di Đà Phật muôn đức hồng danh tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh về thế giới Cực Lạc và khi lâm chung được bạn lành trợ niệm. Đây đều là duyên tha lực.
HỎI: Người tu lúc lâm chung nếu đầy đủ nhân duyên, liền được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc là thế nào?
ĐÁP: Người tu lúc sắp mạng chung tín thành tha thiết niệm Phật, Đức Phật sở niệm là duyên tha lực, còn tâm năng niệm là nhân tự lực. Ngay trong lúc tin sâu, nguyện thiết, chí thành niệm Phật là dùng tâm năng niệm, niệm Phật sở niệm. Phật sở niệm nhân vì tâm năng niệm mà hiển hiện, tâm năng niệm nhân vì Phật sở niệm mà được thanh tịnh. Thời điểm này chính là tự lực và tha lực cảm ứng đạo giao, nhân và duyên hòa hợp, cho nên được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Đây là lẽ tất nhiên!
HỎI: Người tu lúc lâm chung, nhân và duyên không đủ thì không được vãng sanh. Tại sao?
ĐÁP: Người thường ngày có tín nguyện tu tập pháp môn niệm Phật mà chưa thành thạo, đến lúc lâm chung, tuy có lòng tín nguyện cầu sanh về Tây phương (có nhân), nhưng vì bị khổ đau bệnh hoạn bức ngặt, tâm không khởi niệm danh hiệu Phật được, không có bạn lành an ủi, chỉ dẫn và trợ niệm (không duyên); lại vì những người trong gia đình không biết, buồn khóc khổ đau, tạo ra các thứ trở ngại. Trong tâm người bệnh khởi lên rất nhiều khổ não, những người trong gia đình không nên khóc lóc làm trở ngại mà hãy giúp đỡ họ niệm Phật cầu vãng sanh về Tịnh Độ. Tuy họ không nói ra, nhưng lúc ấy vô cùng đau khổ, đến khi mạng chung, lẽ ra thần thức người ấy được thác sanh về cõi nước thanh tịnh trang nghiêm của Phật A Di Đà, mãi mãi hưởng thọ an lạc thành tựu Phật đạo độ khắp chúng sanh, nhưng vì gia đình, bà con… buồn khóc, gây ra các thứ trở ngại, một tâm niệm rốt sau ấy liền rong ruổi theo phiền não mà bị đọa lạc. Đây là mối tương quan giữa sự có nhân mà không duyên, cho nên không thể vãng sanh.
Lại có người thường ngày tha thiết tín nguyện niệm Phật, đến lúc lâm chung, trợ duyên cũng rất tốt, cũng có các bạn lành đến giúp đỡ niệm Phật và những người trong gia đình đều không khóc lóc làm chướng ngại (có duyên). Nhưng người ấy trong lòng sanh điên đảo, tham đắm vào dục tình thế gian và luyến ái vợ con, tài sản… không phát tâm niệm Phật để sanh về Tây Phương Cực Lạc (không nhân), đến một tâm niệm sau cùng cũng bị tình ái dục nhiễm lôi dắt, đoạ vào ác đạo. Đây là mối tương quan có duyên mà không nhân, cho nên cũng không được vãng sanh.
Lại có người ngày thường tuy niệm Phật, chỉ cầu nguyện cho gia đình được bình an che chở và thọ mạng lâu dài, đến lúc lâm chung, trong tâm luôn sợ chết. Ví như căn bệnh khi mới phát sanh, tuy cũng khởi tâm niệm Phật, nhưng họ chỉ cầu cho bệnh tật được mau lành, không phát tâm cầu mong sanh về Tây Phương Cực Lạc (không nhân). Bệnh tình mỗi lúc một trầm trọng. Hơn nữa, khi bệnh khổ đã hiện bày thì họ không thể an lòng niệm Phật, chỉ rên la, kêu réo trời đất, cha mẹ… Nếu như những người trong gia đình không tin Phật pháp, hoặc có tin nhưng chưa hiểu rõ nghĩa lý trong kinh đức Phật dạy thì chẳng những họ không trợ niệm dẫn dắt (không duyên), lại còn khóc lóc, kêu réo, gây ra các thứ trở ngại làm cho nỗi đau khổ và phiền não trong tâm người bệnh trỗi dậy, thật rối rắm không thể nói. Đây cũng giống như người rơi xuống giếng, lại còn ném đá theo. Thật là khổ não đau xót khôn cùng! Đối với hạng người này, một niệm sau khi mạng chung nhất định sẽ bị phiền não ác nghiệp lôi dắt và đọa ngay vào trong ba đường ác. Đây là mối tương quan không nhân và cũng không duyên, cho nên không thể vãng sanh Tây phương.
Ba hạng người nêu trên lúc lâm chung có nhân tự lực, nhưng không có duyên tha lực. Có duyên tha lực, nhưng không có nhân tự lực vì không được hai lực tự và tha cảm ứng đạo giao, nhân duyên hòa hợp, nên không được vãng sanh Tây phương.
HỎI: Người lúc lâm chung, nhân duyên thế nào thì mới đầy đủ và được vãng sanh Tây phương?
ĐÁP: Nếu người có đại căn cơ, thường ngày có tín nguyện niệm Phật; tín nguyện đã tha thiết, niệm Phật công phu lại rất thuần thục; lúc lâm chung không cần ai ở bên cạnh trợ niệm, người ấy tự nhiên sẽ tín nguyện niệm Phật như thường ngày, trong lòng không có các tướng: động tĩnh, khổ vui, thuận nghịch… niệm niệm nối nhau, an trụ trong câu A Di Đà Phật.
Kinh A Di Đà chép: “Nhất tâm bất loạn thì liền được vãng sanh”. Niệm tâm là nhân tự lực năng cảm; Phật cảnh là duyên tha lực sở cảm. Đây là được đầy đủ nhân và duyên.
Lại có người thường ngày có tín nguyện niệm Phật nhưng công phu chưa thuần thục, đến lúc lâm chung, khởi lòng tín nguyện cầu sanh Tây phương, tha thiết hơn thường ngày, không luận là bệnh khổ hay các thứ phiền não dấy hiện, người ấy chỉ một lòng cầu nguyện vãng sanh trước sau không dời đổi; gia đình người ấy có tri thức, hiểu rõ việc lợi hại lúc lâm chung, không buồn đau hay làm các thứ trở ngại; lại có thiện hữu đến trợ niệm dẫn dắt. Trong tâm người bệnh, mỗi niệm đều nương tựa vào hồng danh A Di Đà Phật. Đến lúc mạng chung, tâm niệm rốt sau niệm Phật và theo Phật vãng sanh về Tây phương. Đây là người có đầy đủ nhân và duyên.
Lại có người ngày thường không biết tín nguyện niệm Phật cầu sanh về Tây phương, đến khi lâm chung được thiện hữu dẫn dắt hoặc nói về sự an vui, thanh tịnh và trang nghiêm ở thế giới Cực Lạc, khiến cho người bệnh sanh lòng hoan hỉ mong cầu. Lại nói Phật A Di Đà có phát ra 48 lời thệ nguyện tiếp dẫn chúng sanh, khiến cho người bệnh sanh lòng chánh tín niệm Phật cầu sanh Tây phương. Người bệnh ấy khi nghe được, liền hoan hỉ tin nhận niệm Phật và quyết định cầu nguyện vãng sanh về thế giới Cực Lạc. Quyến thuộc đều nghe theo lời chỉ dẫn của thiện hữu mà không làm các thứ chướng ngại, khóc than. Người này lúc sắp mạng chung, niệm niệm nối nhau, nương vào từ lực của chư Phật tiếp dẫn vãng sanh về Tây phương. Đây là nói nhân và duyên đều đầy đủ.
Trên đây đã lược nêu ra ba hạng người lúc sắp mạng chung, hai lực Tự Tha đầy đủ thì cảm ứng đạo giao, nhân duyên hòa hợp, cho nên được vãng sanh Tây phương.
HỎI: Người thường ngày hoàn toàn chưa biết tín nguyện niệm Phật, đến lúc lâm chung, gặp thiện hữu dẫn dắt, sau khi nghe liền sanh lòng hoan hỉ, tin nhận và phát nguyện cầu sanh về Tây phương. Những người trong gia đình đều không khóc lóc buồn thương, lại còn giúp đỡ họ niệm Phật, khi mạng chung cũng được vãng sanh về Tịnh Độ. Tại sao lại có chuyện dễ dàng như thế?
ĐÁP: Trên đây đã nói rõ sáu điều kiện về người lâm chung được vãng sanh Tây phương, còn chuyện dễ hay không thì cũng được trình bày rất minh bạch. Sao bạn lại hoài nghi? Nếu hiểu được hạng người này bình thường chưa từng tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây phương, đây là vì không biết nguyên do. Đến lúc lâm chung, vì được bạn lành dẫn dắt, người này nghe được, trong lòng sanh hoan hỉ, đây là biểu hiện họ có gieo trồng căn lành ở đời trước. Tâm thức người này thật không giống với lúc bình thường, lại tin nhận niệm Phật, phát lòng cầu sanh Tây phương, đây là nhân thù thắng. Bạn lành dẫn dắt và quyến thuộc giúp đỡ niệm Phật. Trợ duyên nầy thật mạnh mẽ, lại nhờ vào nguyện lực từ bi của Phật A Di Đà tiếp dẫn, quả là nhân và duyên in hợp nhau. Vậy người tu lúc mạng chung nhất định được vãng sanh về Tây Phương Tịnh Độ, lại có gì ngăn ngại được?
HỎI: Mỗi người chúng ta phải vì cha mẹ, bà con của mình, đến lúc mạng chung giúp đỡ họ niệm Phật và đưa họ về Cực Lạc Tây Phương; giả như mời mà các thiện hữu không thể đến được; mọi người trong gia đình chưa hiểu về giáo lý nhà Phật, cho dù có mở bày hướng dẫn phương pháp trợ niệm thì cũng không thể hiểu. Xin hỏi có kinh sách gì giảng giải phương pháp trợ niệm mà văn tự tương đối dễ xem, dễ hiểu và dễ học tập để mọi người tìm hiểu, đây không phải là việc tốt hơn sao?
ĐÁP: Các bạn nếu thật lòng muốn thực hành đạo từ bi, hiếu thuận, thương yêu thân bằng quyến thuộc của mình, khiến trừ sạch những nỗi sanh tử khổ đau, trợ niệm cho họ vãng sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc mãi mãi được an lạc cho đến thành tựu Phật đạo, độ khắp chúng sanh; chỉ cần nương theo nội dung và ý nghĩa các đề mục trong sách này thực hành, đến lúc mạng chung nhất định được vãng sanh sang thế giới Tây Phương Cực Lạc.
Xuân đến rồi đi, hoa nở lại tàn, đó là định luật muôn thuở của vũ trụ. Tuy nhiên, có một mùa xuân không đến cũng không đi, hoa xuân vẫn nở mãi trong lòng người con Phật, không bao giờ tàn phai, một mùa xuân bất tận cho những ai thấy được thực tướng của các pháp.
Ta thấy được tinh thần nầy qua bài thơ của Thiền sư Đạo Xuyên:
远观山有色
近听水无声。
春去花还在
人来鸟不惊。
头头皆显露
物物体元平。
如何言不会
祗为太分明。
Phiên âm:
“Viễn quan sơn hữu sắc.
Cận thính thủy vô thinh.
Xuân khứ hoa hoàn tại.
Nhơn lai điểu bất kinh.
Đầu đầu giai hiển lộ.
Vật vật thể nguyên bình.
Như hà ngôn bất hội.
Chỉ vị thái phân minh.”
Tạm dịch:
Đứng xa nhìn mà núi vẫn màu xanh.
Lại gần nghe nước chảy không âm thanh.
Xuân đi hoa còn nở.
Người đến chim không sợ.
Mọi thứ hiển bày rõ.
Mọi vật tánh bình lặng.
Nói mãi sao không ngộ.
Do phân biệt quá nhiều.
Văn từ trong bốn câu đầu bài thơ miêu tả như một bức tranh, cho nên có khi người ta gá thêm chữ “họa” ở đầu đề. Họa về cảnh núi non thì ta thấy quá rõ về hình sắc, nên đứng xa thấy vẫn có suối chảy, có chim, có hoa núi bừng khai khi xuân về ấm áp; Khi đến gần thì không nghe tiếng suối chảy; Dù mùa xuân qua rồi nhưng hoa vẫn còn nở mãi; Người đến nhưng chim không bay đi. Bốn câu nầy mới đọc qua ta thấy tác giả dường như đang diễn tả về một bức tranh, đề cập về ngoại cảnh thiên nhiên.
Thế nhưng, bốn câu sau ta thấy tác giả không đề cập gì đến bức tranh cả, mà nói toàn nói về tự tánh thanh tịnh của nội tại, mượn cảnh để nói về thiền lý, nhìn cảnh vật với một tự tánh thanh tịnh.
Do đó, mới thấy được mọi thứ đều là đạo, mọi chỗ đều hiển lộ tự tánh sáng suốt, mọi sự mọi vật tự tánh của chúng vốn giống nhau, xưa nay vốn bình đẳng không hai không khác. Sở dĩ không rõ được bản thể xưa nay, chỉ vì rơi vào sự phân biệt tầm thường, rồi tư duy chấp trước.
Tự tánh thấy núi, mặc dù có sắc tướng, nhưng có cũng như là không, tất cả chỉ là huyễn tướng; tự tánh nghe nước chảy, mỗi tiếng đều không có thực thể, nên có tiếng cũng như là không tiếng; tự tánh nhìn thấy hoa mùa xuân, không có thủ xả, ngay lúc ấy đó chính là tự tánh, cho nên mùa xuân đi qua rồi hoa vẫn còn hé nụ, đây là hoa của tự tánh, mà hoa của tự tánh thì không có tàn phai, vì tự tánh vốn không có duyên sanh diệt; người đến gần, chim vì sợ mà bay đi, nhưng tự tánh của chim thì vẫn tự tại như nhiên, không từng sợ sệt điều chi. Tất cả mọi thứ hiển bày rõ thì đều là tự tánh đại đạo; muôn sự muôn vật đều có tự tánh thanh tịnh, xưa nay vốn bình đẳng; Thiền sư đã nói như vậy mà không lãnh hội được, bởi vì người ta thường đem tự tánh thanh tịnh sáng suốt chuyển thành vọng thức tư duy phân biệt. Vậy thì toàn bộ bài thơ là nói về Thiền lý, trong đó liên quan đến cảnh vật và con người đạt đến sự triệt ngộ. Thiền sư Bàng Uẩn nói:
但自无心于万物
何妨万物常围绕
铁牛不怕狮子吼
恰是木人见花鸟
木人本体自 无情
花鸟逢人亦不惊
心境如如只个是
何虑菩提道不成
庞蕴居士
Phiên âm:
Đản tự vô tâm ư vạn vật
Hà phương vạn vật thường vi nhiễu
Thiết ngưu bất phạ sư tử hống
Kháp tự mộc nhân kiến hoa điểu.
Mộc nhân bản thể tự vô tình
Hoa điểu phùng nhơn diệc bất kinh
Tâm cảnh như như chỉ cá thị
Hà lự Bồ đề đạo bất thành
(Bàng Uẩn Cư sĩ).
Tạm dịch
Đối với muôn vật vô tâm nha
Nào ngăn muôn vật nhiễu hại ta
Trâu sắt thản nhiên Sư tử rống
Khác gì người gỗ ngắm chim hoa.
Tình trong người gỗ vốn là không
Người gặp chim hoa bản thể đồng
Tâm cảnh như như là thế đấy
Lo gì giác ngộ chẳng thành công.
Đây là miêu tả sự thanh tịnh của tự tánh, bặt dứt tư lự không còn dùng phán đoán của tâm thức, vạn vật như nhiên. Chính vì tự tánh thanh tịnh, nên đối với cái nhìn về vạn vật xung quanh hoàn toàn thanh tịnh.
Tướng do tâm sanh, cảnh theo tâm hiện, nội tâm thanh tịnh thì ngoại tướng tự nhiên cũng thanh tịnh. Tâm mình vui vẻ điều hòa, thì ngoại duyên cũng vui vẻ điều hòa. Tâm mình thay đổi thế nào, thì thế giới cũng thay đổi như thế ấy.… tâm ta buồn thì nhìn vạn vật u buồn, tâm ta vui nhìn vạn vật vui,… bởi vì tâm làm chủ muôn vật.
Tự tánh thấy núi tuy có sắc tướng, thì có cũng như không, chỉ vì huyển tướng mà thôi. Tự tánh nghe tiếng nước chảy, biết tiếng vốn là không thật, cho nên có tiếng cũng như không.
Tuy nhiên, mây bay nước chảy là hiện tượng tự nhiên, chúng ta phải sống hài hòa với thiên nhiên, không thể nào tách rời mà tồn tại.
Tự tánh xem hoa mùa xuân nở, không có lấy không có bỏ, không khen không chê, ngay lúc ấy là tự tánh. Cho nên mùa xuân đi rồi mà hoa vẫn còn nở.
Hoa bên ngoài có nở có tàn, dù là hoa trong bức họa đi nữa rồi cũng sẽ hư mục, nhưng hoa lòng, hoa giác ngộ, thì mãi mãi nở trọn vẹn trong tự tánh.
Câu mùa xuân đi rồi mà hoa vẫn còn hàm tiếu, ý nói thời gian dù có thay đổi, cảnh vật dù có bị vô thường chi phối, nhưng tâm hoa vẫn luôn luôn tồn tại. Sắc thân thì mất, nhưng pháp thân vẫn thường hiện hữu, pháp thân không bị vô thường chi phối. Mùa xuân ấy là biểu tượng của sự khai ngộ trong tiềm thức.
Thiền sư Mãn Giác có bài thơ sau:
春去百花落
春到百花开
事逐眼前过
老从头上来
莫谓春残花落尽
庭前昨夜一枝梅.
Phiên âm:
Xuân khứ bách hoa lạc.
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhãn tiền quá.
Lão tòng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận.
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Tạm dịch:
Xuân đi trăm hoa rụng.
– Vì đây là hoa của cây cỏ, hoa ở ngoại cảnh thiên nhiên.
Xuân đến trăm hoa nở.
– Đúng thời tiết nhân duyên thì bừng nở
Trước mắt việc qua mãi.
– Sự vô thường xoay vầy thay đổi, mọi việc diễn biến theo quy luật thành trụ hoại không, sanh trụ dị diệt.
Trên đầu già đến rồi.
– Còn con người thì phải biến thiên theo bốn tướng sanh lão bệnh tử.
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết.
– Hoa trong tự tánh không tàn phai dù mùa xuân đã qua.
Đêm qua sân trước một cành mai.
– Hoa nầy vượt ra ngoài khái niệm của thời gian.
Vì đây là mùa xuân giác ngộ, tự tánh đã bừng khai.
Mọi việc xao động, tâm viên ý mã đã ẩn sâu, bặt dứt hết núi tự ngã kia, thì hoa giác ngộ sẽ hiện hữu mãi trước mặt. Cho nên hoa tự tánh thì không tàn tạ theo thời gian, vì tự tánh thì làm gì có sanh diệt?.
Như sự ngộ đạo của Thiền sư Linh Vân, sau bao nhiêu năm bôn ba tham học với những bậc có tuệ giác lớn, nhưng đến khi thời tiết nhơn duyên đã chín mùi, Lúc dừng lại ngắm nhìn hoa đào nở thì ngộ đạo, Ngài làm bài thơ diễn tả cảnh ngộ của mình trình lên Thiền sư Qui Sơn ấn chứng:
三十年来寻剑客
几回落叶又抽枝
自从一见桃花後
直至如今更不疑
灵云志勤禅师.
Phiên âm:
Tam thập niên lai tầm kiếm khách
Kỷ hồi lạc diệp hựu trừu chi
Tự tùng nhất kiến đào hoa hậu
Trực chí như kim cánh bất nghi
Tạm dịch:
Ba mươi năm rồi tìm kiếm khách
– Sau nhiều năm bôn ba tham học với những bậc giác ngộ trí tuệ, để mong cầu chứng đắc cho mình, trong Phật giáo kiếm là tiêu biểu cho trí tuệ sắc bén.
Bao lần lá rụng lại đâm chồi
– Trải qua thời gian dài, qua bao độ biến thiên của sự vật, lá già rụng chồi non ra. Thu đi xuân đến, nhưng chưa thấy gì là chứng đắc, chỉ vì lo đi tìm ở bên ngoài, bỏ quên ông Phật trong lòng mình.
Từ khi nhìn thấy hoa đào nở
– Đương niệm tiếp xúc với hiện thực khách quan, hòa nhập tâm hồn vào trong rạng thái ngay bây giờ và ở đây. Không tìm kiếm xa vời nữa, vô thường tức thường; sắc chính là không, không chính là sắc; sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Không phân biệt nhị biên, đã về tức là đã tới.
Mãi đến hôm nay chẳng còn nghi.
– Tuệ giác đã bừng khai, vạn hữu hiển hiện rõ ràng ngay trong đương niệm, không còn tư lự phan duyên nghi ngờ gì nữa.
Thật là “Phật tức tâm, tâm thành vốn có Phật; Tâm tức Phật, Phật chứng ở tấm lòng thành”.
Mọi việc xao động tiêu tan, tâm ý phân biệt và núi tự ngã không còn, thì hoa giác ngộ sẽ hiện hữu mãi trước mặt.
Người đến chim thấy vì sanh tâm sợ hãi mà bay đi, nhưng chim trong tự tánh thì vẫn như nhiên không lay động, không từng kinh sợ lo lắng, tất cả muôn sự muôn vật ở thế gian bổn tánh vốn là thanh tịnh.
Cho nên khi Phật mới thành đạo Ngài nói: “Nào dè tự tánh xưa nay vốn thanh tịnh” hay Ngài cũng đã từng nói: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”.
Tự tánh xưa nay thanh tịnh, bình đẳng, như thế thì tại sao Thiền sư lại phải mở lòng từ nói như thế, bởi vì con người đa phần rơi vào trạng thái tư duy phân biệt, đem tự tánh sáng suốt giác ngộ bỏ quên, cho nên mới có câu “Vác Phật đi qua nhà người để tìm Phật”.
Đây là một sự đương niệm hiện thực của hành giả trong thiền lâm, Thiền sư Huyền Quang có bài thơ nói rõ về tinh thần không phân biệt nầy, chỉ biết nhìn vào ngay hiện thực, nhìn cho thật rõ những gì đang xảy ra, không suy niệm về tương lai hay quá khứ.
花在庭中人在楼
焚香独坐自忘忧
主人与物浑无竞
花向群芳出一头
Phiên âm:
Hoa tại đình trung nhơn tại lâu
Phần hương độc tọa tự vong ưu
Chủ nhơn dữ vật hồn vô cạnh
Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu.
Tạm dịch:
Người ở trên lầu hoa dưới sân
– Người và cảnh cùng hiện hữu trong một không gian.
Vô ưu ngồi ngắm khói trầm xông
– Biết trở về chính mình an nhiên không tư lự, vượt ngoài cái hạn hữu của thời gian.
Hồn nhiên người vật không tranh cạnh.
– Người là người vật là vật, không phân biệt nhị biên, không bị trần cảnh chi phối.
Đóa hoa nở rộ ngát hương thiền
- Cảnh tượng trước mắt, một thực tại trí tuệ hiện tiền, hương hoa giác ngộ thơm ngào ngạt khắp chốn.
Trong “Huệ Hải Thiền Sư nói: “Người mê không biết pháp thân, thì chẳng gì khác ứng vật hiện hình, bèn gọi xanh xanh trúc biếc đều là pháp thân, rực rỡ hoa vàng đều là bát nhã. Hoa vàng nếu là bát nhã, thì bát nhã tức đồng với vô tình; trúc biếc nếu là pháp thân, thì pháp thân tức đồng với cây cỏ.”
Về sau nầy, nhân vì thế mà câu “Trúc biếc hoa vàng” là chỉ cảnh tượng trước mắt, thực tại đang là, không truy tìm về quá khứ, không ước vọng tương lai, mà là một thực tại hiện tiền. Hoa vàng còn chỉ cho hoa cúc.
Sách “Lễ Ký. Thiên Nguyệt Lệnh” chép: “Tháng cuối thu, hoa có màu vàng thì chỉ có loài hoa cúc”.
Ý thức luôn luôn chạy theo vọng tưởng, đó là căn bệnh cố hữu của tất cả chúng sanh. Vì vậy làm thế nào để “Tâm không ngăn ngại nơi mọi vật”, rỗng suốt tất cả, để đạt được tâm cảnh an nhiên, tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên.
Năm mới xuân về trăm hoa đua nở, cũng chính là hình ảnh bao nhiêu hoa nở của những mùa xuân trước “tân niên hoa phát cố niên hoa”, đời như bào ảnh nhấp nhô giữa trùng dương mênh mông, công danh phú quí khác chi đám phù vân lênh đênh trên nền trời, bốn mùa xoay vần hết xuân rồi lại đến thu, cuộc sống cứ tiếp diễn và trôi qua mãi mãi không bao giờ dừng lại. Chỉ có Đức Phật ngài đã tìm ra mùa xuân mới, một mùa xuân không có thời gian cũng không có không gian, một mùa xuân giải thoát an lành cho nhân loại.
Cho dù trong cuộc sống gặp nghịch cảnh đi nữa, chúng ta cũng nên nở một nụ cười hoan hỷ buông bỏ tất cả, bặt dứt hết mọi ý niệm phân biệt nhị biên để “ánh xuân quang Phật nhật” được bừng lên từ cõi miền sâu xa của dòng tâm thức vô tận. Lúc ấy chúng ta sẽ nhận ra được thể tánh sâu xa bình đẳng của vũ trụ vạn hữu. Trăm hoa đua nở ta đều biết, vạn vật đổi thay ta đều hay, vui xuân trong sự tỉnh thức, không chạy theo ảo ảnh sanh diệt của ngoại cảnh, mà sống trọn vẹn với chất xuân, chất xuân luôn hiện hữu, mà đã luôn hiện hữu, thì nào có đến có đi?. Tuy ta đón xuân một cách tuỳ duyên tùy tục, nhịp nhàng với cuộc sống đời thường nhưng từng bước chân thực tại vẫn đang an trú trong niềm hỷ lạc vô biên. Vì lẽ dòng suối hài hoà và niềm hạnh phúc chân chánh ấy, được khơi nguồn từ sự bình an vô tận, trong một tâm hồn khoáng đạt chứ không phải hướng về ngoại cảnh để truy cầu.
Năm tháng không chờ đợi người, sanh già bệnh chết ấy là lẽ thường tình của nhân sinh, sống chết chẳng qua chỉ là một giai đoạn trong tiến trình của sinh mạng. Đương nhiên, sự sống chết sẽ không còn là một chuyện thần bí nữa, nếu những ai đã thấy rõ được thực trạng của nó và tất cả chúng ta dường như ai ai cũng không thể đoán trước được điều gì sắp xảy ra trong một tương lai đầy hứa hẹn nào đó.
Người xưa khuyên chúng ta hãy nên siêng năng tu tập ngay từ khi tuổi còn trẻ, vì lúc tuổi già gặp nhiều sự trở ngại không thể tu được. Nếu người “việc làm đã xong” thì cho dù đại hạn có đến đi nữa nhưng họ vẫn tự tại an vui, không còn bối rối và bị nghiệp lực bức bách, như người tất bật lo toan trang trải nợ nần trong ngày chạp Tết.
Quá khứ thì đã qua rồi, hiện tại vẫn còn đang tiếp diễn, tương lai là những gì chưa thấy đến, người học Phật chúng ta nên vượt khỏi mọi ngăn cách của thời gian để thấy được lẽ hiện thực của cuộc sống.
Chúng ta nên hiểu biết thương yêu nhau, hãy đặt niềm tin tha thứ cho nhau, cùng dìu nhau trên bước đường giải thoát, an trú trong thực tại với tràn đầy niềm hỷ lạc, mùa xuân ngay bây giờ và ở đây. Được vậy thì “Xuân đi rồi mà hoa vẫn còn hé nụ”, mùa xuân nầy không còn hạn cuộc bởi khái niệm về thời gian và không gian nữa, mà là xuân trong tự tánh đương niệm thực tại hiện tiền.
Nha Mân 2024.
Ý NGHĨA LỄ TRUNG NGUYÊN
THÍCH THỊ PHƯỚC
Tháng 7 âm lịch, tết Trung Nguyên, là một trong những lễ hội quan trọng nhất của người Việt. Lễ hội này đã đi sâu vào truyền thống văn hóa hóa và đậm nét trong tâm thức của bao thế hệ con người. Tháng 7 chính là tháng để bày tỏ lòng kính kính với tổ tiên, cha mẹ.
Trung nguyên ngày hội Vu lan
Bến giác chiều thu sóng đạo ngàn
Những ai là kẻ mang ơn nặng nề
Đều vận lòng thành đón Vu lan.
Trung nguyên tiết中元節, là một ngày lễ tiết của Đạo giáo, còn được gọi là Địa Quan Xá Tội, Địa quan đản – ngày Khánh sanh của Địa Quan Đông Linh Thanh Hư Đại Đế Thành Linh Đế Quân.
Trong Đạo giáo vào ngày này có thiết lập lễ xá tội cho vong linh. Vì vốn có nguồn gốc, ngày đầu thu ăn mừng vụ mùa vừa gặt hái, người dân thiết lễ cúng tạ đất đai, về sau Đạo giáo đã tiếp nhận tinh thần này, lấy đây là lễ Địa Quan Xá Tội .
Đạo Phật đã du nhập và phát triển trên đất nước Việt Nam vào năm 2000 năm lịch sử, người tu Phật đầu tiên phải biết tu nhân, là một tôn giáo vốn dĩ lấy hiếu làm gốc. Tinh thần hiếu đạo này rất phù hợp với nền văn hóa, của một đất nước vốn thờ cúng ông bà tổ tiên. Do vậy, tinh thần Vu lan báo hiếu đã hội nhập một cách nhanh chóng trong lòng đất Việt.
Từ đó, nguồn cội yêu thương hiếu đạo đã được khơi dậy một cách mạnh mẽ, nên rằm tháng bảy trở thành một lễ hội truyền thống tri ân cao quý của Phật giáo: Tết trung nguyên, rằm tháng bảy, địa quan xá tội, Mục liên cứu mẹ, lễ tự tứ,…Đây là ngày lễ truyền thống của đạo lý Việt Nam, dạy cho mọi người xóa bỏ hận thù, biết làm mới với tinh thần “Xá Tội – tha thứ những lỗi lầm”.
Về phương diện tín ngưỡng, cũng như tình thương yêu vô bờ bến của đạo Phật, vượt qua mọi giới hạn của nhân gian, đem đến sự viên mãn Pháp thực cho những oan hồn, cô hồn đói khát không nơi nương tựa, thể hiện qua các buổi “chẩn tế bạt độ âm linh” được diễn ra trong suốt tháng 7.
Tại đất nước Việt Nam ta, lễ Trung Nguyên là một lễ hội long trọng nhất trong năm, sức ảnh hưởng mạnh mẽ tồn tại lâu đời trong cộng đồng dân tộc, đáp ứng tư tưởng uống nước nhớ nguồn từ nghìn xưa.
Ngày xá tội vong nhân và lễ Vu lan giống nhau là đều có chung nguồn gốc từ Phật giáo. Hai ngày lễ đều được tổ chức vào Rằm tháng 7 với mục đích thể hiện lòng kính trọng, biết ơn với những tổ tiên và các bậc sinh thành.
Dân gian quan niệm tháng bảy là tháng cúng cô hồn, ngày rằm “xá tội vong nhân” – ngày Diêm Vương mở cửa Quỷ Môn Quan để ma quỷ được tự do trở về dương thế.
Đây cũng là sự liên kết chặt chẽ giữa quá khứ và hiện tại, bởi tinh thần báo ân hiếu kính của Phật giáo. Giúp cho con người có thời gian suy niệm về ông bà tổ tiên, và mở tấm lòng rộng rãi bố thí thương yêu, những con người bất hạnh, hay những oan hồn đói khát bơ vơ.
Ngược lại với tinh thần rằm tháng giêng, người ta đi du xuân trẩy hội vui chơi, hưởng thụ không khí mùa xuân, đi chùa chú trọng về việc cầu nguyện thân thể bình an, phát tài phát lộc…Rằm tháng bảy, chú ý về tha nhân, nhớ về sự đề đáp, siêu độ, không chú trọng cho cá nhân mình.
Đây là một tinh thần cao quý của người Việt, ảnh hưởng rất nhiều nền văn hóa, trong đó nền tảng nhất là đạo Hiếu của Phật Giáo.
SÁM MỤC LIÊN – THÍCH THIỆN PHƯỚC
Con quỳ lạy Phật Thích Ca Chứng minh đệ tử tên là Mục Liên Lòng con mộ đạo tu hiền Xuất gia theo Phật cầu nguyền hôm nay. Nghe kinh Phật thuyết bảy ngày Minh tâm kiến tánh như lai trọn lành Lục thông đầy đủ nên danh Muốn tìm Cha Mẹ lòng thành gắng công. Đền ơn cho bú ẵm bồng Liền dùng đạo nhãn xem liền thế gian Thấy vong Mẹ khổ muôn vàn Ốm gầy đói khát trong đàng quỷ ma. Mục Liên kêu Mẹ khóc la Đau lòng thương Mẹ đọa sa Diêm đình Thanh Đề nhìn thấy con mình Mục Liên cứu Mẹ hết tình gắng công. Con ơi! Mẹ đói trong lòng Mục Liên nghe nói khóc ròng thở than Vội vàng trở lại thế gian Bới cơm một bát đem sang Mẹ mừng. Và cơm vô miệng nửa chừng Chén cơm hóa lửa phừng phừng thành than Mục Liên xem thấy kinh hoàng Trong lòng đau đớn khóc than buồn tình. Mẹ ơi! Niệm Phật độ mình Trở về lạy phật cầu xin Mẹ già Thích Ca Đức Phật phân qua Mẹ ngươi tội nặng đọa ra nghiệp hành. Ta truyền cứu tế pháp lành Cần cầu Tăng chúng tịnh thanh chú nguyền Cầu cho Phụ Mẫu hiện tiền Lục thân quyến thuộc bình yên đều hòa. Bảy đời Phụ Mẫu đã qua Về Trời hưởng phước sáng lòa hào quang Vui chơi thong thả thanh nhàn Ngày rằm tháng Bảy lập đàn trai tăng. Sắm cơm trăm món đồ ăn Trái cây ngũ quả hương đăng rõ ràng Chiếu, giường, bồn nước, mùng, màn Dầu, đường, trà lá, bát vàng đựng cơm. Những đồ vật quý bông thơm Thành tâm dọn tiệc Lan Bồn phân minh Cúng dường Tam Bảo cầu Kinh Chư Tăng tịnh giới giữ gìn nghiêm trang. Cầu cho Thí chủ Trai đàn Tâm hành thiền định vái van chúc nguyền Thanh Đề khổ ách hết liền Ngày rằm tháng Bảy thành tiên về Trời. Noi gương hiếu thảo đời đời, Xót thương Phụ Mẫu hiện thời nuôi con. Nhai cơm cho bú hao mòn Ơn sâu nghĩa nặng thương con hết lòng. Trời cao đất rộng mênh mông Biển hồ lai láng sánh đồng Thái sơn Tu hành báo tứ trọng ân Độ đời ba cõi sạch trơn trọn lành. Mục Liên đại hiếu tu hành Báo ân Phụ Mẫu nên danh độ đời.
Chuyện hai đóa hồng.
Câu chuyện của hai đóa hồng trong đêm trước ngày Vu Lan. Đó là Hồng Nhung đỏ Giảm và Hồng trắng tinh khôi.
Ngày lễ Vu La n người ta cài lên cánh mình đóa Hồng Nhung nếu họ may mắn còn có mẹ, người mất mẹ cài đóa Hồng trắng cho mình.
Đêm tháng 7 Âm lịch. Ngày trăng thứ 14 đủ tròn và sáng để chiếu lên vạn vật. Vườn hồng nằm dưới ánh trăng vàng dịu dàng. Tia sương của đêm đọng lại lá, lên những cánh hồng. Những đóa hồng tỏa mùi thơm khắp không gian về đêm. Chỉ còn đêm nay nữa thôi, sáng mai sớm hết những thứ đóa hồng này sẽ được ngắt, để người đời dùng chúng thay cho lời tri ân với mẹ! Ngày Lễ Vu Lan.
Hồng Trắng được trồng cạnh Hồng Nhung. Hồng Trắng say sưa tận hưởng cái lạnh của sương, uống lấy từng giọt sương để khiến mình có thể rực rỡ nhất vào ngày mai. Đóa Hồng Nhung nhìn bạn đang cố gắng hết sức có thể để tăng nhựa sống cho mình, Hồng Nhung rụt rè nói với bạn:
– Hồng Trắng ơi, mai là ngày lễ Vu lan rồi, cậu có buồn không?
– Tại sao lại buồn chứ?
Gương mặt Hồng Trắng vẫn tươi tắn lạ thường. Hồng Nhung khẽ khàng:
– Tớ không biết vì sao trong ngày lễ Vu lan con người lại dùng tớ, một loài hoa hồng mang màu đỏ để dành cho những người còn mẹ trên đời. Còn cậu – loài hoa hồng trắng luôn phải dành cho những người đã mất mẹ. Có khi nào cậu thấy buồn không?
– Không đâu, tớ không phải là đại diện cho sự bất hạnh của những người mất mẹ, tớ thay họ nói lên tình yêu vô bờ bến mà họ dành cho mẹ. Họ dùng tớ để thay lời cảm ơn và thể hiện lòng kính yêu với mẹ, ngay cả khi mẹ không còn trên thế gian này nữa. Được cài trước lồng ngực của những người mất mẹ, tớ nghe được tiếng thổn thức, một nỗi xót xa trào dâng qua từng nhịp đập của con tim.
- Nhưng những người còn mẹ sẽ vui vẻ hơn những người mất mẹ vì vậy nếu được chọn cài lên ngực những người còn mẹ sẽ hạnh phúc hơn rất nhiều phải không nào?Hồng Nhung gặng hỏi bạn.
- Tôi nghĩ đến tớ khi nằm trên thăng của người khác, những người may mắn còn mẹ sẽ hiểu họ cần phải làm gì xứng đáng với ân huệ mà cuộc đời còn dành cho họ. Họ cần phải có nhiều hơn để đến một ngày nào đó khi phải cài đặt lên vũ khí, họ không cảm thấy ân hận vì mình đã không làm một người tốt. Tôi hạnh phúc khi nói thay tình yêu của những người mất mẹ và nuôi dưỡng tới những người còn mẹ. Tôi đã làm giả sứ của tình nguyên tử quý giá.
Hồng Nhung nhìn Hồng ngưỡng ngưỡng. Cả hai yên lặng hút dưỡng dưỡng từ đất và uống sương đêm để mình đẹp hơn vào ngày mai.
(Diệu Bạch St)
◊-◊—————————————– ———————-◊-◊
NĂM THÁNG DẦN TRÔI
NĂM THÁNG DẦN TRÔI
Thích Thiện Phước
Cuộc đời là một hành trình luôn đưa ta về phía trước, không giậm chân tại chỗ, không lùi lại phía sau, từng bước chân trải dài ấy, luôn mang theo: Ước mơ thách thức, hạnh phúc niềm đau, nụ cười tiếng khóc, thất bại thành công, nhục vinh được mất,… có người đạt được đỉnh cao của sự nghiệp một cách mau chóng dễ dàng khi còn rất trẻ, có người lận đận mãi vẫn không thành, có người thì chưa lên đến đài vinh quang thì nhìn lại đã già, hơi tàn sức kiệt, rồi phải chống chọi chịu đựng với bệnh tật, như chờ đợi đến hồi kết thúc một chuyến đi xa…
Ai cũng có một thời vẫy vùng xông pha nơi chân trời góc biển, rồi cũng có lúc phải thu mình bình lặng chốn quê nhà, vui cùng cỏ nội mây ngàn, đếm từng giọt mưa rơi như dòng thời gian của đời người đang trút xuống… trở về sống cho mình, ngồi cắt móng tay, đếm từng hơi thở, soi gương nhìn mặt mình thật kỹ thật lâu, để thấy những nếp nhăn in đậm nét phong trần, thấy mây bay cuối tận chân trời mà lòng đầy xao xuyến, bỗng quên đi bao ký ức về cuộc đời thành bại nhục vinh, đã là lữ khách trần gian thì cái gì là của họ của ta, đến lúc an lòng nhìn lại buông xuôi muôn duyên để nhẹ lòng cho một chuyến đi về…“cô đơn không hẵn một mình, một mình không hẵn cô đơn”, chim hót, lá rơi, bầu trời đầy sao đêm…chỉ một mình ta nhưng ngập tràn hạnh phúc bao la.
Mờ sáng rừng thiền chưa dọi nắng
Đêm về hoa cỏ cũng lặng yên
Từng tiếng chim kêu bình minh dậy
Sương lờ bóng nguyệt giới hương bay.
Thật ra, đời người mau chóng lắm bạn, tất cả mọi chúng ta đều sẽ có ngày ly biệt và đến điểm dừng, đó là ngày mà mình rời xa thế giới nầy, ly biệt người thân thương, mọi thứ mà ta gắn bó trân quí yêu thích rồi cũng phải buông xuôi, ta không giữ mãi những gì mình có được, mất mát, đổi thay, tàn hoại…vì thế gian là vô thường, có một thứ không bao giờ thay đổi, đó là luôn luôn thay đổi, sống ở đời đôi lúc cũng phải tuỳ duyên, thay đổi chính mình cho phù hợp với thời đại hoàn cảnh, nếu ta không thay đổi thì sẽ bị thay thế và lùi về phía sau.
Nếu biết còn vài ngày, vài giờ, vài phút giây nữa để sống, thì bạn sẽ sống như thế nào, và làm gì cho khoảng thời gian còn lại của mình?… Ai nấy đều có nỗi khổ niềm đau, vì vậy cho dù hoàn cảnh nào, ta phải sống tràn ngập tình thương yêu: Bản thân, mọi người và muôn loài, khi tình thương đủ lớn thì cánh cửa khổ đau cũng dần khép lại, xin cho đi tình thương vô hạn bằng nhiều phương diện ở trong đời.
Lạy Phật mong sao cho con và mọi người mọi loài sống an lành tự tại, như cánh hạc tung bay giữa bầu trời cao rộng thênh thang, như những đám mây nhẹ nhàng phiêu bồng cao vút chốn thiên không, như dòng nước thì thầm len lõi xuyên qua mọi ngóc ngách của vũ trụ bao la, thong dong từng bước chân đi ngang cuộc đời một cách an toàn không vướng mắc, như làn gió thổi qua những cánh đồng hoa cỏ, mang theo hương thơm vi diệu lan tỏa khắp mọi chân trời.
Thời gian của kiếp người là một nguồn tài nguyên có giới hạn, không thể tái chế, mua bán, trao đổi, tiền bạc châu báu mất đi hôm nay, ngày mai có thể tìm được, còn thời gian trôi qua rồi, sẽ không bao giờ trở lại. Món quà vô giá này, tạo hóa đã ban cho chúng ta và muôn loài đồng đều như nhau. Mỗi ngày đêm có 24 giờ đồng hồ, nhưng chúng ta sử dụng vào việc gì, đó là chuyện cá nhân của từng người…
Đời người sống vài mươi năm, thật quá ngắn ngủi so với vòng luân hồi vô tận. Mỗi một hành nghiệp của chúng ta, dù tốt hay xấu, đều ẩn tàng lý nhân quả ở đó. Vì vậy, khi được làm thân người, bạn hãy tận dụng cơ hội hiếm có nầy, cố gắng sống nhân từ, đạo đức, chân chánh, trung nghĩa, thanh cao, liêm khiết,… trải lòng yêu thương giúp đỡ mọi người.
Cuộc đời, vốn dĩ có nhiều sự bất an đau khổ, ta nên sống sao cho có ý nghĩa, mang lại niềm vui cho mình và người. Ngày ngày tu nhân tích đức, sớm sớm tinh tấn công phu, cầu mong cho mọi người hết khổ, sống đời an vui hạnh phúc trong cõi phù du mộng ảo nầy.
Tuy nhiên, cuộc đời thật tươi đẹp cho những ai sống chân thật với nó: Và vẫn còn đâu đó những khoảng trời bình yên vô hạn, những đàn cò trắng bay lượn xa xa trên cánh đồng lúa bất tận giữa buổi chiều thu nhạt nắng, những khu rừng nguyên sinh xanh thẳm bao la, những dòng sông tĩnh lặng uốn khúc êm đềm, những chú ong dễ thương chăm chỉ hút mật, những đàn bướm bay chập chờn trong vườn hoa cỏ dại khi bình minh về còn đượm thấm sương đêm….thành trụ hoại không – thế gian vô thường, sanh già bệnh chết – thân người giả tạm, xuân hạ thu đông – năm tháng dần trôi, lá rụng về cội nước chảy ra khơi, an nhiên cho một chuyến đi về,…