(Canh đầu đã đến chuẩn bị lên giường ngồi thiền, ba nghiệp sạch hết thì thấy dung nhan đức Phật, tin theo lời Ngài dạy thường nên niệm Phật, và chỉ một lòng hướng đến cõi Tây phương thôi).
Canh hai
Nhị canh dĩ đáo lự hư không
Thỉ giác phù sanh nhất mộng trung
Niệm Phật nhất tâm vô gián đoạn
Viên minh nhất điểm tận linh thông.
(Canh hai đến rồi bặt dứt lo nghĩ trong lòng trống rỗng như hư không, thế mới biết kiếp phù sanh chỉ là một giấc mộng. Vậy ta hãy nên nhất tâm niệm Phật khiến cho không gián đoạn, niệm đến khi một điểm tròn đầy sáng suốt rồi thì linh thông tất cả).
Canh ba
Tam canh dĩ đáo khiển thùy ma
Thấu khẩu liên tâm tọa kết già
Niệm Phật nhất tâm vô tạp tướng
Công thành quả mãn kiến Di Đà.
(Canh ba đến rồi hãy mau đánh tan con ma ngủ đi, súc miệng lắng lòng thanh tịnh ngồi kết già. Nên nhất tâm niệm Phật khiến cho tạp tướng không xen vào, đến khi công viên quả mãn nhất định thấy Phật Di Đà).
Canh tư
Tứ canh dĩ đáo tận diên sanh
Tịnh mặc tầm đầu diễn phạm âm
Phật quốc phi diêu thiên bất viễn
Nguyên lai chỉ tại nhất tâm thành.
(Canh bốn đến rồi mạng sống cũng dần giảm, nên lẳng lặng tham tầm và diễn bày lời kinh tiếng kệ. Nếu hiểu được như thế thì dù cho nước Phật hay cõi trời cũng chẳng xa xôi, nhưng phải biết rằng tất cả ở chỗ một lòng thành mà thôi).
Canh năm
Ngũ canh dĩ đáo pháp môn khai
Phổ nguyện đồng đăng bát nhã đài
Liểu triệt tam thừa dung nhị đế
Cao huyền huệ nhật tịnh vân mai.
(Canh năm đã đến cửa pháp cũng mở ra, nguyện cho khắp tất cả mọi loài đều lên đài bát nhã, rõ suốt ba thừa dung thông giữa tục đế và chơn đế, mặt trời trí tuệ sáng suốt cao vời vợi sẽ xua tan những đám mây mù buổi sớm).
b. NHỮNG BÀI KỆ CHUÔNG KHÁC.
Kệ chuông tọa thiền tối.
Sơ canh dĩ đáo thường thiền sàng
Tam nghiệp tịnh trừ đổ thánh nhan
Thâm tín Phật ngôn thường niệm Phật
Chỉ tu nhất hương nhập Linh San.
(Canh đầu đã đến rồi chuẩn bị lên giường ngồi thiền, ba nghiệp sạch hết thì thấy dung nhan đức Phật, tin theo lời Ngài dạy thường nên niệm Phật, và chỉ một lòng hướng đến chốn Linh Sơn).
Kệ chuông tọa thiền khuya.
Ngũ canh dĩ mãn pháp môn khai
Truy bạch đồng đăng bát nhã đài
Liễu triệt tam thừa dung nhị đế
Cao huyền huệ nhật kiến Như Lai.
(Canh năm đã mãn cửa pháp cũng mở ra, nguyện cho tất cả người xuất gia tại gia đều lên đài bát nhã, rõ suốt ba thừa dung thông giữa tục đế và chơn đế, khi mặt trời trí tuệ cao vời vợi soi tỏ thì thấy được Như lai).
Kệ chuông trưa.
Kình chùy cử xử ngục môn khai
Đẳng đẳng chư vong thính pháp lai
Phật hiệu kinh thinh siêu khổ hải
Hàm linh thoát hoá thường kim giai.
(Chày kình đã khua vừa lúc ấy cánh cửa địa ngục cũng mở toang, các vong linh mau mau đến đây để nghe pháp, nương nhờ lời kinh tiếng kệ và danh hiệu Phật mà vượt khỏi biển khổ, tất cả hàm linh đều giải thoát hướng lên bờ giác ngộ).
Khai chuông khuya.
Ngũ canh chuông động vật tham miên
Đẩu tẩu tinh thần hướng Phật tiền
Nhất bái nhất thinh xưng thánh hiệu
Hoa trì dĩ chủng nhất chi liên.
(Năm canh chuông đóng chớ mê ngủ nữa, mau mau phấn chấn tinh thần hướng đến Phật đài, mỗi niệm mỗi câu đều xưng danh hiệu, ngay lúc ấy ao sen đã trổ một bông vàng).
Thâu chuông khuya.
Chung thinh cửu thập hựu lôi chùy
Tịnh diện tăng già đẳng tri
Tham phóng tứ thời tuân khổ chế
Hạ đơn lưỡng bộ các oai nghi.
(Dộng 90 tiếng chuông lại đổ hồi, báo cho tất cả chư tăng đều hay biết, tham thiền ngày 4 thời thảy noi theo phép tắc, khi xuống giường cất bước phải sửa sang đầy đủ các oai nghi).
Khai chuông tối.
Sơ canh dĩ đáo khán đơn thiền
Cá cá tham tầm thập nhị duyên
Liễu đắc vị sanh tiền phụ mẫu
Tham phương bất nhậm Tổ sư truyền.
(Canh đầu đã đến rồi nên ngồi thiền, ai nấy đều phải tham cứu 12 nhân duyên, hiểu rõ được câu: “Khi cha mẹ chưa sanh ta là ai”, thế mới không uổng công sức tham phương học đạo với những gì Tổ sư đã truyền thừa).
Thâu chuông tối.
Sơ canh dĩ mãn vô thượng tấn tốc
Ngưỡng lao đại chúng an tọa tịnh trung
Văn chung thinh nhất tâm kế niệm
Nam mô A Di Đà Phật.
(Canh đầu đã mãn cơn vô thường đến thật mau chóng, ngưỡng mong đại chúng an tọa trong chánh niệm, nghe tiếng chuông phát khởi chánh niệm. Nam Mô A Di Đà Phật).
Khai chuông tối.
Bồ Lao nhất chuyển hướng chung thinh
Phạm sát kình chuỳ chấn địa minh
Lục thú tài văn phiền não tức
Tam đồ xạ thính khổ toan định.
(Bồ lao một khi chuyển động thì nghe tiếng chuông vang lên, chày kình ở chốn phạm sát làm chấn động cả cõi địa ngục, sáu nẻo vừa nghe dứt hết phiền não và ba đường cũng liền dừng nghỉ hình phạt).
Thâuchuông tối.
Nghe chuông mau lẹ chớ dần dà
Đêm lụn canh tàn bóng xế qua
Khi mất thân người ôi khó được
Siêng tu giải thoát niệm Di Đà.
Khai chuông chiều
Mộ thời chung động nguyện chư linh
Tốc phó liên đài thoát địa minh
Nghiệp chướng tận trừ qui lạc quốc
Vãng lai tam giới độ mê tình.
(Dộng chuông buổi chiều nguyện cho các vong linh, mau thoát chốn địa ngục bước lên đài sen, phủi sạch nghiệp chướng để về nước Tây phương Cực lạc, qua lại ba cõi để độ người mê).
Thâu chuông chiều
Khấu chuông dĩ mãn cửu liên khai
Đại chúng kiên trì tịnh giới trai
Trú dạ tứ thời hằng niệm Phật
Đồng qui Tịnh độ kiến Như Lai.
(Dộng chuông vừa xong thì hoa sen chín phẩm cũng nở ra, đại chúng nên trì trai giữ giới. Ngày đêm sáu thời nên thường xuyên niệm Phật, để cùng về Tịnh độ gặp đức Như Lai).
Xuân đến rồi đi, hoa nở lại tàn, đó là định luật muôn thuở của vũ trụ. Tuy nhiên, có một mùa xuân không đến cũng không đi, hoa xuân vẫn nở mãi trong lòng người con Phật, không bao giờ tàn phai, một mùa xuân bất tận cho những ai thấy được thực tướng của các pháp.
Ta thấy được tinh thần nầy qua bài thơ của Thiền sư Đạo Xuyên:
远观山有色
近听水无声。
春去花还在
人来鸟不惊。
头头皆显露
物物体元平。
如何言不会
祗为太分明。
Phiên âm:
“Viễn quan sơn hữu sắc.
Cận thính thủy vô thinh.
Xuân khứ hoa hoàn tại.
Nhơn lai điểu bất kinh.
Đầu đầu giai hiển lộ.
Vật vật thể nguyên bình.
Như hà ngôn bất hội.
Chỉ vị thái phân minh.”
Tạm dịch:
Đứng xa nhìn mà núi vẫn màu xanh.
Lại gần nghe nước chảy không âm thanh.
Xuân đi hoa còn nở.
Người đến chim không sợ.
Mọi thứ hiển bày rõ.
Mọi vật tánh bình lặng.
Nói mãi sao không ngộ.
Do phân biệt quá nhiều.
Văn từ trong bốn câu đầu bài thơ miêu tả như một bức tranh, cho nên có khi người ta gá thêm chữ “họa” ở đầu đề. Họa về cảnh núi non thì ta thấy quá rõ về hình sắc, nên đứng xa thấy vẫn có suối chảy, có chim, có hoa núi bừng khai khi xuân về ấm áp; Khi đến gần thì không nghe tiếng suối chảy; Dù mùa xuân qua rồi nhưng hoa vẫn còn nở mãi; Người đến nhưng chim không bay đi. Bốn câu nầy mới đọc qua ta thấy tác giả dường như đang diễn tả về một bức tranh, đề cập về ngoại cảnh thiên nhiên.
Thế nhưng, bốn câu sau ta thấy tác giả không đề cập gì đến bức tranh cả, mà nói toàn nói về tự tánh thanh tịnh của nội tại, mượn cảnh để nói về thiền lý, nhìn cảnh vật với một tự tánh thanh tịnh.
Do đó, mới thấy được mọi thứ đều là đạo, mọi chỗ đều hiển lộ tự tánh sáng suốt, mọi sự mọi vật tự tánh của chúng vốn giống nhau, xưa nay vốn bình đẳng không hai không khác. Sở dĩ không rõ được bản thể xưa nay, chỉ vì rơi vào sự phân biệt tầm thường, rồi tư duy chấp trước.
Tự tánh thấy núi, mặc dù có sắc tướng, nhưng có cũng như là không, tất cả chỉ là huyễn tướng; tự tánh nghe nước chảy, mỗi tiếng đều không có thực thể, nên có tiếng cũng như là không tiếng; tự tánh nhìn thấy hoa mùa xuân, không có thủ xả, ngay lúc ấy đó chính là tự tánh, cho nên mùa xuân đi qua rồi hoa vẫn còn hé nụ, đây là hoa của tự tánh, mà hoa của tự tánh thì không có tàn phai, vì tự tánh vốn không có duyên sanh diệt; người đến gần, chim vì sợ mà bay đi, nhưng tự tánh của chim thì vẫn tự tại như nhiên, không từng sợ sệt điều chi. Tất cả mọi thứ hiển bày rõ thì đều là tự tánh đại đạo; muôn sự muôn vật đều có tự tánh thanh tịnh, xưa nay vốn bình đẳng; Thiền sư đã nói như vậy mà không lãnh hội được, bởi vì người ta thường đem tự tánh thanh tịnh sáng suốt chuyển thành vọng thức tư duy phân biệt. Vậy thì toàn bộ bài thơ là nói về Thiền lý, trong đó liên quan đến cảnh vật và con người đạt đến sự triệt ngộ. Thiền sư Bàng Uẩn nói:
但自无心于万物
何妨万物常围绕
铁牛不怕狮子吼
恰是木人见花鸟
木人本体自 无情
花鸟逢人亦不惊
心境如如只个是
何虑菩提道不成
庞蕴居士
Phiên âm:
Đản tự vô tâm ư vạn vật
Hà phương vạn vật thường vi nhiễu
Thiết ngưu bất phạ sư tử hống
Kháp tự mộc nhân kiến hoa điểu.
Mộc nhân bản thể tự vô tình
Hoa điểu phùng nhơn diệc bất kinh
Tâm cảnh như như chỉ cá thị
Hà lự Bồ đề đạo bất thành
(Bàng Uẩn Cư sĩ).
Tạm dịch
Đối với muôn vật vô tâm nha
Nào ngăn muôn vật nhiễu hại ta
Trâu sắt thản nhiên Sư tử rống
Khác gì người gỗ ngắm chim hoa.
Tình trong người gỗ vốn là không
Người gặp chim hoa bản thể đồng
Tâm cảnh như như là thế đấy
Lo gì giác ngộ chẳng thành công.
Đây là miêu tả sự thanh tịnh của tự tánh, bặt dứt tư lự không còn dùng phán đoán của tâm thức, vạn vật như nhiên. Chính vì tự tánh thanh tịnh, nên đối với cái nhìn về vạn vật xung quanh hoàn toàn thanh tịnh.
Tướng do tâm sanh, cảnh theo tâm hiện, nội tâm thanh tịnh thì ngoại tướng tự nhiên cũng thanh tịnh. Tâm mình vui vẻ điều hòa, thì ngoại duyên cũng vui vẻ điều hòa. Tâm mình thay đổi thế nào, thì thế giới cũng thay đổi như thế ấy.… tâm ta buồn thì nhìn vạn vật u buồn, tâm ta vui nhìn vạn vật vui,… bởi vì tâm làm chủ muôn vật.
Tự tánh thấy núi tuy có sắc tướng, thì có cũng như không, chỉ vì huyển tướng mà thôi. Tự tánh nghe tiếng nước chảy, biết tiếng vốn là không thật, cho nên có tiếng cũng như không.
Tuy nhiên, mây bay nước chảy là hiện tượng tự nhiên, chúng ta phải sống hài hòa với thiên nhiên, không thể nào tách rời mà tồn tại.
Tự tánh xem hoa mùa xuân nở, không có lấy không có bỏ, không khen không chê, ngay lúc ấy là tự tánh. Cho nên mùa xuân đi rồi mà hoa vẫn còn nở.
Hoa bên ngoài có nở có tàn, dù là hoa trong bức họa đi nữa rồi cũng sẽ hư mục, nhưng hoa lòng, hoa giác ngộ, thì mãi mãi nở trọn vẹn trong tự tánh.
Câu mùa xuân đi rồi mà hoa vẫn còn hàm tiếu, ý nói thời gian dù có thay đổi, cảnh vật dù có bị vô thường chi phối, nhưng tâm hoa vẫn luôn luôn tồn tại. Sắc thân thì mất, nhưng pháp thân vẫn thường hiện hữu, pháp thân không bị vô thường chi phối. Mùa xuân ấy là biểu tượng của sự khai ngộ trong tiềm thức.
Thiền sư Mãn Giác có bài thơ sau:
春去百花落
春到百花开
事逐眼前过
老从头上来
莫谓春残花落尽
庭前昨夜一枝梅.
Phiên âm:
Xuân khứ bách hoa lạc.
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhãn tiền quá.
Lão tòng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận.
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Tạm dịch:
Xuân đi trăm hoa rụng.
– Vì đây là hoa của cây cỏ, hoa ở ngoại cảnh thiên nhiên.
Xuân đến trăm hoa nở.
– Đúng thời tiết nhân duyên thì bừng nở
Trước mắt việc qua mãi.
– Sự vô thường xoay vầy thay đổi, mọi việc diễn biến theo quy luật thành trụ hoại không, sanh trụ dị diệt.
Trên đầu già đến rồi.
– Còn con người thì phải biến thiên theo bốn tướng sanh lão bệnh tử.
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết.
– Hoa trong tự tánh không tàn phai dù mùa xuân đã qua.
Đêm qua sân trước một cành mai.
– Hoa nầy vượt ra ngoài khái niệm của thời gian.
Vì đây là mùa xuân giác ngộ, tự tánh đã bừng khai.
Mọi việc xao động, tâm viên ý mã đã ẩn sâu, bặt dứt hết núi tự ngã kia, thì hoa giác ngộ sẽ hiện hữu mãi trước mặt. Cho nên hoa tự tánh thì không tàn tạ theo thời gian, vì tự tánh thì làm gì có sanh diệt?.
Như sự ngộ đạo của Thiền sư Linh Vân, sau bao nhiêu năm bôn ba tham học với những bậc có tuệ giác lớn, nhưng đến khi thời tiết nhơn duyên đã chín mùi, Lúc dừng lại ngắm nhìn hoa đào nở thì ngộ đạo, Ngài làm bài thơ diễn tả cảnh ngộ của mình trình lên Thiền sư Qui Sơn ấn chứng:
三十年来寻剑客
几回落叶又抽枝
自从一见桃花後
直至如今更不疑
灵云志勤禅师.
Phiên âm:
Tam thập niên lai tầm kiếm khách
Kỷ hồi lạc diệp hựu trừu chi
Tự tùng nhất kiến đào hoa hậu
Trực chí như kim cánh bất nghi
Tạm dịch:
Ba mươi năm rồi tìm kiếm khách
– Sau nhiều năm bôn ba tham học với những bậc giác ngộ trí tuệ, để mong cầu chứng đắc cho mình, trong Phật giáo kiếm là tiêu biểu cho trí tuệ sắc bén.
Bao lần lá rụng lại đâm chồi
– Trải qua thời gian dài, qua bao độ biến thiên của sự vật, lá già rụng chồi non ra. Thu đi xuân đến, nhưng chưa thấy gì là chứng đắc, chỉ vì lo đi tìm ở bên ngoài, bỏ quên ông Phật trong lòng mình.
Từ khi nhìn thấy hoa đào nở
– Đương niệm tiếp xúc với hiện thực khách quan, hòa nhập tâm hồn vào trong rạng thái ngay bây giờ và ở đây. Không tìm kiếm xa vời nữa, vô thường tức thường; sắc chính là không, không chính là sắc; sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Không phân biệt nhị biên, đã về tức là đã tới.
Mãi đến hôm nay chẳng còn nghi.
– Tuệ giác đã bừng khai, vạn hữu hiển hiện rõ ràng ngay trong đương niệm, không còn tư lự phan duyên nghi ngờ gì nữa.
Thật là “Phật tức tâm, tâm thành vốn có Phật; Tâm tức Phật, Phật chứng ở tấm lòng thành”.
Mọi việc xao động tiêu tan, tâm ý phân biệt và núi tự ngã không còn, thì hoa giác ngộ sẽ hiện hữu mãi trước mặt.
Người đến chim thấy vì sanh tâm sợ hãi mà bay đi, nhưng chim trong tự tánh thì vẫn như nhiên không lay động, không từng kinh sợ lo lắng, tất cả muôn sự muôn vật ở thế gian bổn tánh vốn là thanh tịnh.
Cho nên khi Phật mới thành đạo Ngài nói: “Nào dè tự tánh xưa nay vốn thanh tịnh” hay Ngài cũng đã từng nói: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”.
Tự tánh xưa nay thanh tịnh, bình đẳng, như thế thì tại sao Thiền sư lại phải mở lòng từ nói như thế, bởi vì con người đa phần rơi vào trạng thái tư duy phân biệt, đem tự tánh sáng suốt giác ngộ bỏ quên, cho nên mới có câu “Vác Phật đi qua nhà người để tìm Phật”.
Đây là một sự đương niệm hiện thực của hành giả trong thiền lâm, Thiền sư Huyền Quang có bài thơ nói rõ về tinh thần không phân biệt nầy, chỉ biết nhìn vào ngay hiện thực, nhìn cho thật rõ những gì đang xảy ra, không suy niệm về tương lai hay quá khứ.
花在庭中人在楼
焚香独坐自忘忧
主人与物浑无竞
花向群芳出一头
Phiên âm:
Hoa tại đình trung nhơn tại lâu
Phần hương độc tọa tự vong ưu
Chủ nhơn dữ vật hồn vô cạnh
Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu.
Tạm dịch:
Người ở trên lầu hoa dưới sân
– Người và cảnh cùng hiện hữu trong một không gian.
Vô ưu ngồi ngắm khói trầm xông
– Biết trở về chính mình an nhiên không tư lự, vượt ngoài cái hạn hữu của thời gian.
Hồn nhiên người vật không tranh cạnh.
– Người là người vật là vật, không phân biệt nhị biên, không bị trần cảnh chi phối.
Đóa hoa nở rộ ngát hương thiền
- Cảnh tượng trước mắt, một thực tại trí tuệ hiện tiền, hương hoa giác ngộ thơm ngào ngạt khắp chốn.
Trong “Huệ Hải Thiền Sư nói: “Người mê không biết pháp thân, thì chẳng gì khác ứng vật hiện hình, bèn gọi xanh xanh trúc biếc đều là pháp thân, rực rỡ hoa vàng đều là bát nhã. Hoa vàng nếu là bát nhã, thì bát nhã tức đồng với vô tình; trúc biếc nếu là pháp thân, thì pháp thân tức đồng với cây cỏ.”
Về sau nầy, nhân vì thế mà câu “Trúc biếc hoa vàng” là chỉ cảnh tượng trước mắt, thực tại đang là, không truy tìm về quá khứ, không ước vọng tương lai, mà là một thực tại hiện tiền. Hoa vàng còn chỉ cho hoa cúc.
Sách “Lễ Ký. Thiên Nguyệt Lệnh” chép: “Tháng cuối thu, hoa có màu vàng thì chỉ có loài hoa cúc”.
Ý thức luôn luôn chạy theo vọng tưởng, đó là căn bệnh cố hữu của tất cả chúng sanh. Vì vậy làm thế nào để “Tâm không ngăn ngại nơi mọi vật”, rỗng suốt tất cả, để đạt được tâm cảnh an nhiên, tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên.
Năm mới xuân về trăm hoa đua nở, cũng chính là hình ảnh bao nhiêu hoa nở của những mùa xuân trước “tân niên hoa phát cố niên hoa”, đời như bào ảnh nhấp nhô giữa trùng dương mênh mông, công danh phú quí khác chi đám phù vân lênh đênh trên nền trời, bốn mùa xoay vần hết xuân rồi lại đến thu, cuộc sống cứ tiếp diễn và trôi qua mãi mãi không bao giờ dừng lại. Chỉ có Đức Phật ngài đã tìm ra mùa xuân mới, một mùa xuân không có thời gian cũng không có không gian, một mùa xuân giải thoát an lành cho nhân loại.
Cho dù trong cuộc sống gặp nghịch cảnh đi nữa, chúng ta cũng nên nở một nụ cười hoan hỷ buông bỏ tất cả, bặt dứt hết mọi ý niệm phân biệt nhị biên để “ánh xuân quang Phật nhật” được bừng lên từ cõi miền sâu xa của dòng tâm thức vô tận. Lúc ấy chúng ta sẽ nhận ra được thể tánh sâu xa bình đẳng của vũ trụ vạn hữu. Trăm hoa đua nở ta đều biết, vạn vật đổi thay ta đều hay, vui xuân trong sự tỉnh thức, không chạy theo ảo ảnh sanh diệt của ngoại cảnh, mà sống trọn vẹn với chất xuân, chất xuân luôn hiện hữu, mà đã luôn hiện hữu, thì nào có đến có đi?. Tuy ta đón xuân một cách tuỳ duyên tùy tục, nhịp nhàng với cuộc sống đời thường nhưng từng bước chân thực tại vẫn đang an trú trong niềm hỷ lạc vô biên. Vì lẽ dòng suối hài hoà và niềm hạnh phúc chân chánh ấy, được khơi nguồn từ sự bình an vô tận, trong một tâm hồn khoáng đạt chứ không phải hướng về ngoại cảnh để truy cầu.
Năm tháng không chờ đợi người, sanh già bệnh chết ấy là lẽ thường tình của nhân sinh, sống chết chẳng qua chỉ là một giai đoạn trong tiến trình của sinh mạng. Đương nhiên, sự sống chết sẽ không còn là một chuyện thần bí nữa, nếu những ai đã thấy rõ được thực trạng của nó và tất cả chúng ta dường như ai ai cũng không thể đoán trước được điều gì sắp xảy ra trong một tương lai đầy hứa hẹn nào đó.
Người xưa khuyên chúng ta hãy nên siêng năng tu tập ngay từ khi tuổi còn trẻ, vì lúc tuổi già gặp nhiều sự trở ngại không thể tu được. Nếu người “việc làm đã xong” thì cho dù đại hạn có đến đi nữa nhưng họ vẫn tự tại an vui, không còn bối rối và bị nghiệp lực bức bách, như người tất bật lo toan trang trải nợ nần trong ngày chạp Tết.
Quá khứ thì đã qua rồi, hiện tại vẫn còn đang tiếp diễn, tương lai là những gì chưa thấy đến, người học Phật chúng ta nên vượt khỏi mọi ngăn cách của thời gian để thấy được lẽ hiện thực của cuộc sống.
Chúng ta nên hiểu biết thương yêu nhau, hãy đặt niềm tin tha thứ cho nhau, cùng dìu nhau trên bước đường giải thoát, an trú trong thực tại với tràn đầy niềm hỷ lạc, mùa xuân ngay bây giờ và ở đây. Được vậy thì “Xuân đi rồi mà hoa vẫn còn hé nụ”, mùa xuân nầy không còn hạn cuộc bởi khái niệm về thời gian và không gian nữa, mà là xuân trong tự tánh đương niệm thực tại hiện tiền.
Nha Mân 2024.
Ý NGHĨA LỄ TRUNG NGUYÊN
THÍCH THỊ PHƯỚC
Tháng 7 âm lịch, tết Trung Nguyên, là một trong những lễ hội quan trọng nhất của người Việt. Lễ hội này đã đi sâu vào truyền thống văn hóa hóa và đậm nét trong tâm thức của bao thế hệ con người. Tháng 7 chính là tháng để bày tỏ lòng kính kính với tổ tiên, cha mẹ.
Trung nguyên ngày hội Vu lan
Bến giác chiều thu sóng đạo ngàn
Những ai là kẻ mang ơn nặng nề
Đều vận lòng thành đón Vu lan.
Trung nguyên tiết中元節, là một ngày lễ tiết của Đạo giáo, còn được gọi là Địa Quan Xá Tội, Địa quan đản – ngày Khánh sanh của Địa Quan Đông Linh Thanh Hư Đại Đế Thành Linh Đế Quân.
Trong Đạo giáo vào ngày này có thiết lập lễ xá tội cho vong linh. Vì vốn có nguồn gốc, ngày đầu thu ăn mừng vụ mùa vừa gặt hái, người dân thiết lễ cúng tạ đất đai, về sau Đạo giáo đã tiếp nhận tinh thần này, lấy đây là lễ Địa Quan Xá Tội .
Đạo Phật đã du nhập và phát triển trên đất nước Việt Nam vào năm 2000 năm lịch sử, người tu Phật đầu tiên phải biết tu nhân, là một tôn giáo vốn dĩ lấy hiếu làm gốc. Tinh thần hiếu đạo này rất phù hợp với nền văn hóa, của một đất nước vốn thờ cúng ông bà tổ tiên. Do vậy, tinh thần Vu lan báo hiếu đã hội nhập một cách nhanh chóng trong lòng đất Việt.
Từ đó, nguồn cội yêu thương hiếu đạo đã được khơi dậy một cách mạnh mẽ, nên rằm tháng bảy trở thành một lễ hội truyền thống tri ân cao quý của Phật giáo: Tết trung nguyên, rằm tháng bảy, địa quan xá tội, Mục liên cứu mẹ, lễ tự tứ,…Đây là ngày lễ truyền thống của đạo lý Việt Nam, dạy cho mọi người xóa bỏ hận thù, biết làm mới với tinh thần “Xá Tội – tha thứ những lỗi lầm”.
Về phương diện tín ngưỡng, cũng như tình thương yêu vô bờ bến của đạo Phật, vượt qua mọi giới hạn của nhân gian, đem đến sự viên mãn Pháp thực cho những oan hồn, cô hồn đói khát không nơi nương tựa, thể hiện qua các buổi “chẩn tế bạt độ âm linh” được diễn ra trong suốt tháng 7.
Tại đất nước Việt Nam ta, lễ Trung Nguyên là một lễ hội long trọng nhất trong năm, sức ảnh hưởng mạnh mẽ tồn tại lâu đời trong cộng đồng dân tộc, đáp ứng tư tưởng uống nước nhớ nguồn từ nghìn xưa.
Ngày xá tội vong nhân và lễ Vu lan giống nhau là đều có chung nguồn gốc từ Phật giáo. Hai ngày lễ đều được tổ chức vào Rằm tháng 7 với mục đích thể hiện lòng kính trọng, biết ơn với những tổ tiên và các bậc sinh thành.
Dân gian quan niệm tháng bảy là tháng cúng cô hồn, ngày rằm “xá tội vong nhân” – ngày Diêm Vương mở cửa Quỷ Môn Quan để ma quỷ được tự do trở về dương thế.
Đây cũng là sự liên kết chặt chẽ giữa quá khứ và hiện tại, bởi tinh thần báo ân hiếu kính của Phật giáo. Giúp cho con người có thời gian suy niệm về ông bà tổ tiên, và mở tấm lòng rộng rãi bố thí thương yêu, những con người bất hạnh, hay những oan hồn đói khát bơ vơ.
Ngược lại với tinh thần rằm tháng giêng, người ta đi du xuân trẩy hội vui chơi, hưởng thụ không khí mùa xuân, đi chùa chú trọng về việc cầu nguyện thân thể bình an, phát tài phát lộc…Rằm tháng bảy, chú ý về tha nhân, nhớ về sự đề đáp, siêu độ, không chú trọng cho cá nhân mình.
Đây là một tinh thần cao quý của người Việt, ảnh hưởng rất nhiều nền văn hóa, trong đó nền tảng nhất là đạo Hiếu của Phật Giáo.
SÁM MỤC LIÊN – THÍCH THIỆN PHƯỚC
Con quỳ lạy Phật Thích Ca Chứng minh đệ tử tên là Mục Liên Lòng con mộ đạo tu hiền Xuất gia theo Phật cầu nguyền hôm nay. Nghe kinh Phật thuyết bảy ngày Minh tâm kiến tánh như lai trọn lành Lục thông đầy đủ nên danh Muốn tìm Cha Mẹ lòng thành gắng công. Đền ơn cho bú ẵm bồng Liền dùng đạo nhãn xem liền thế gian Thấy vong Mẹ khổ muôn vàn Ốm gầy đói khát trong đàng quỷ ma. Mục Liên kêu Mẹ khóc la Đau lòng thương Mẹ đọa sa Diêm đình Thanh Đề nhìn thấy con mình Mục Liên cứu Mẹ hết tình gắng công. Con ơi! Mẹ đói trong lòng Mục Liên nghe nói khóc ròng thở than Vội vàng trở lại thế gian Bới cơm một bát đem sang Mẹ mừng. Và cơm vô miệng nửa chừng Chén cơm hóa lửa phừng phừng thành than Mục Liên xem thấy kinh hoàng Trong lòng đau đớn khóc than buồn tình. Mẹ ơi! Niệm Phật độ mình Trở về lạy phật cầu xin Mẹ già Thích Ca Đức Phật phân qua Mẹ ngươi tội nặng đọa ra nghiệp hành. Ta truyền cứu tế pháp lành Cần cầu Tăng chúng tịnh thanh chú nguyền Cầu cho Phụ Mẫu hiện tiền Lục thân quyến thuộc bình yên đều hòa. Bảy đời Phụ Mẫu đã qua Về Trời hưởng phước sáng lòa hào quang Vui chơi thong thả thanh nhàn Ngày rằm tháng Bảy lập đàn trai tăng. Sắm cơm trăm món đồ ăn Trái cây ngũ quả hương đăng rõ ràng Chiếu, giường, bồn nước, mùng, màn Dầu, đường, trà lá, bát vàng đựng cơm. Những đồ vật quý bông thơm Thành tâm dọn tiệc Lan Bồn phân minh Cúng dường Tam Bảo cầu Kinh Chư Tăng tịnh giới giữ gìn nghiêm trang. Cầu cho Thí chủ Trai đàn Tâm hành thiền định vái van chúc nguyền Thanh Đề khổ ách hết liền Ngày rằm tháng Bảy thành tiên về Trời. Noi gương hiếu thảo đời đời, Xót thương Phụ Mẫu hiện thời nuôi con. Nhai cơm cho bú hao mòn Ơn sâu nghĩa nặng thương con hết lòng. Trời cao đất rộng mênh mông Biển hồ lai láng sánh đồng Thái sơn Tu hành báo tứ trọng ân Độ đời ba cõi sạch trơn trọn lành. Mục Liên đại hiếu tu hành Báo ân Phụ Mẫu nên danh độ đời.
Chuyện hai đóa hồng.
Câu chuyện của hai đóa hồng trong đêm trước ngày Vu Lan. Đó là Hồng Nhung đỏ Giảm và Hồng trắng tinh khôi.
Ngày lễ Vu La n người ta cài lên cánh mình đóa Hồng Nhung nếu họ may mắn còn có mẹ, người mất mẹ cài đóa Hồng trắng cho mình.
Đêm tháng 7 Âm lịch. Ngày trăng thứ 14 đủ tròn và sáng để chiếu lên vạn vật. Vườn hồng nằm dưới ánh trăng vàng dịu dàng. Tia sương của đêm đọng lại lá, lên những cánh hồng. Những đóa hồng tỏa mùi thơm khắp không gian về đêm. Chỉ còn đêm nay nữa thôi, sáng mai sớm hết những thứ đóa hồng này sẽ được ngắt, để người đời dùng chúng thay cho lời tri ân với mẹ! Ngày Lễ Vu Lan.
Hồng Trắng được trồng cạnh Hồng Nhung. Hồng Trắng say sưa tận hưởng cái lạnh của sương, uống lấy từng giọt sương để khiến mình có thể rực rỡ nhất vào ngày mai. Đóa Hồng Nhung nhìn bạn đang cố gắng hết sức có thể để tăng nhựa sống cho mình, Hồng Nhung rụt rè nói với bạn:
– Hồng Trắng ơi, mai là ngày lễ Vu lan rồi, cậu có buồn không?
– Tại sao lại buồn chứ?
Gương mặt Hồng Trắng vẫn tươi tắn lạ thường. Hồng Nhung khẽ khàng:
– Tớ không biết vì sao trong ngày lễ Vu lan con người lại dùng tớ, một loài hoa hồng mang màu đỏ để dành cho những người còn mẹ trên đời. Còn cậu – loài hoa hồng trắng luôn phải dành cho những người đã mất mẹ. Có khi nào cậu thấy buồn không?
– Không đâu, tớ không phải là đại diện cho sự bất hạnh của những người mất mẹ, tớ thay họ nói lên tình yêu vô bờ bến mà họ dành cho mẹ. Họ dùng tớ để thay lời cảm ơn và thể hiện lòng kính yêu với mẹ, ngay cả khi mẹ không còn trên thế gian này nữa. Được cài trước lồng ngực của những người mất mẹ, tớ nghe được tiếng thổn thức, một nỗi xót xa trào dâng qua từng nhịp đập của con tim.
- Nhưng những người còn mẹ sẽ vui vẻ hơn những người mất mẹ vì vậy nếu được chọn cài lên ngực những người còn mẹ sẽ hạnh phúc hơn rất nhiều phải không nào?Hồng Nhung gặng hỏi bạn.
- Tôi nghĩ đến tớ khi nằm trên thăng của người khác, những người may mắn còn mẹ sẽ hiểu họ cần phải làm gì xứng đáng với ân huệ mà cuộc đời còn dành cho họ. Họ cần phải có nhiều hơn để đến một ngày nào đó khi phải cài đặt lên vũ khí, họ không cảm thấy ân hận vì mình đã không làm một người tốt. Tôi hạnh phúc khi nói thay tình yêu của những người mất mẹ và nuôi dưỡng tới những người còn mẹ. Tôi đã làm giả sứ của tình nguyên tử quý giá.
Hồng Nhung nhìn Hồng ngưỡng ngưỡng. Cả hai yên lặng hút dưỡng dưỡng từ đất và uống sương đêm để mình đẹp hơn vào ngày mai.
(Diệu Bạch St)
◊-◊—————————————– ———————-◊-◊
NĂM THÁNG DẦN TRÔI
NĂM THÁNG DẦN TRÔI
Thích Thiện Phước
Cuộc đời là một hành trình luôn đưa ta về phía trước, không giậm chân tại chỗ, không lùi lại phía sau, từng bước chân trải dài ấy, luôn mang theo: Ước mơ thách thức, hạnh phúc niềm đau, nụ cười tiếng khóc, thất bại thành công, nhục vinh được mất,… có người đạt được đỉnh cao của sự nghiệp một cách mau chóng dễ dàng khi còn rất trẻ, có người lận đận mãi vẫn không thành, có người thì chưa lên đến đài vinh quang thì nhìn lại đã già, hơi tàn sức kiệt, rồi phải chống chọi chịu đựng với bệnh tật, như chờ đợi đến hồi kết thúc một chuyến đi xa…
Ai cũng có một thời vẫy vùng xông pha nơi chân trời góc biển, rồi cũng có lúc phải thu mình bình lặng chốn quê nhà, vui cùng cỏ nội mây ngàn, đếm từng giọt mưa rơi như dòng thời gian của đời người đang trút xuống… trở về sống cho mình, ngồi cắt móng tay, đếm từng hơi thở, soi gương nhìn mặt mình thật kỹ thật lâu, để thấy những nếp nhăn in đậm nét phong trần, thấy mây bay cuối tận chân trời mà lòng đầy xao xuyến, bỗng quên đi bao ký ức về cuộc đời thành bại nhục vinh, đã là lữ khách trần gian thì cái gì là của họ của ta, đến lúc an lòng nhìn lại buông xuôi muôn duyên để nhẹ lòng cho một chuyến đi về…“cô đơn không hẵn một mình, một mình không hẵn cô đơn”, chim hót, lá rơi, bầu trời đầy sao đêm…chỉ một mình ta nhưng ngập tràn hạnh phúc bao la.
Mờ sáng rừng thiền chưa dọi nắng
Đêm về hoa cỏ cũng lặng yên
Từng tiếng chim kêu bình minh dậy
Sương lờ bóng nguyệt giới hương bay.
Thật ra, đời người mau chóng lắm bạn, tất cả mọi chúng ta đều sẽ có ngày ly biệt và đến điểm dừng, đó là ngày mà mình rời xa thế giới nầy, ly biệt người thân thương, mọi thứ mà ta gắn bó trân quí yêu thích rồi cũng phải buông xuôi, ta không giữ mãi những gì mình có được, mất mát, đổi thay, tàn hoại…vì thế gian là vô thường, có một thứ không bao giờ thay đổi, đó là luôn luôn thay đổi, sống ở đời đôi lúc cũng phải tuỳ duyên, thay đổi chính mình cho phù hợp với thời đại hoàn cảnh, nếu ta không thay đổi thì sẽ bị thay thế và lùi về phía sau.
Nếu biết còn vài ngày, vài giờ, vài phút giây nữa để sống, thì bạn sẽ sống như thế nào, và làm gì cho khoảng thời gian còn lại của mình?… Ai nấy đều có nỗi khổ niềm đau, vì vậy cho dù hoàn cảnh nào, ta phải sống tràn ngập tình thương yêu: Bản thân, mọi người và muôn loài, khi tình thương đủ lớn thì cánh cửa khổ đau cũng dần khép lại, xin cho đi tình thương vô hạn bằng nhiều phương diện ở trong đời.
Lạy Phật mong sao cho con và mọi người mọi loài sống an lành tự tại, như cánh hạc tung bay giữa bầu trời cao rộng thênh thang, như những đám mây nhẹ nhàng phiêu bồng cao vút chốn thiên không, như dòng nước thì thầm len lõi xuyên qua mọi ngóc ngách của vũ trụ bao la, thong dong từng bước chân đi ngang cuộc đời một cách an toàn không vướng mắc, như làn gió thổi qua những cánh đồng hoa cỏ, mang theo hương thơm vi diệu lan tỏa khắp mọi chân trời.
Thời gian của kiếp người là một nguồn tài nguyên có giới hạn, không thể tái chế, mua bán, trao đổi, tiền bạc châu báu mất đi hôm nay, ngày mai có thể tìm được, còn thời gian trôi qua rồi, sẽ không bao giờ trở lại. Món quà vô giá này, tạo hóa đã ban cho chúng ta và muôn loài đồng đều như nhau. Mỗi ngày đêm có 24 giờ đồng hồ, nhưng chúng ta sử dụng vào việc gì, đó là chuyện cá nhân của từng người…
Đời người sống vài mươi năm, thật quá ngắn ngủi so với vòng luân hồi vô tận. Mỗi một hành nghiệp của chúng ta, dù tốt hay xấu, đều ẩn tàng lý nhân quả ở đó. Vì vậy, khi được làm thân người, bạn hãy tận dụng cơ hội hiếm có nầy, cố gắng sống nhân từ, đạo đức, chân chánh, trung nghĩa, thanh cao, liêm khiết,… trải lòng yêu thương giúp đỡ mọi người.
Cuộc đời, vốn dĩ có nhiều sự bất an đau khổ, ta nên sống sao cho có ý nghĩa, mang lại niềm vui cho mình và người. Ngày ngày tu nhân tích đức, sớm sớm tinh tấn công phu, cầu mong cho mọi người hết khổ, sống đời an vui hạnh phúc trong cõi phù du mộng ảo nầy.
Tuy nhiên, cuộc đời thật tươi đẹp cho những ai sống chân thật với nó: Và vẫn còn đâu đó những khoảng trời bình yên vô hạn, những đàn cò trắng bay lượn xa xa trên cánh đồng lúa bất tận giữa buổi chiều thu nhạt nắng, những khu rừng nguyên sinh xanh thẳm bao la, những dòng sông tĩnh lặng uốn khúc êm đềm, những chú ong dễ thương chăm chỉ hút mật, những đàn bướm bay chập chờn trong vườn hoa cỏ dại khi bình minh về còn đượm thấm sương đêm….thành trụ hoại không – thế gian vô thường, sanh già bệnh chết – thân người giả tạm, xuân hạ thu đông – năm tháng dần trôi, lá rụng về cội nước chảy ra khơi, an nhiên cho một chuyến đi về,…