Húy kỵ là chỉ cho ngày mà thầy Tổ, cha mẹ, người thân thương, bạn bè… của chúng ta qua đời. Ngày xưa, gặp ngày chung cư thì người ta cấm kỵ tất cả những cuộc vui như: Uống rượu, sát sanh, ca nhảy lễ,… cho nên mới gọi như thế.
* HÚY KỴ:
Lễ húy kỵ, còn gọi là kỵ húy, húy nhật, nhật mệnh, kỵ thần, húy thần, kỵ thần, đám cưới, lễ tiễn, đám cưới, lễ húy kỵ.
Theo “Lễ Ký. Tế Nghĩa” chép: “Người quân tử có cái tiếc cả đời đó chính là ngày kỵ”.
Trịnh Huyền nói: “Kỵ nhật, tức là ngày kỷ niệm đau buồn mà người thân qua đời”.
Thời phong kiến, ngày sinh nhật, ngày qua đời của Vua, Hoàng hậu, thì gọi chung là ngày kỵ.
Chữ Húy theo tiếng tính từ có nghĩa là kiêng cữ, tránh không nói hoặc viết ra, cho nên mới nói: chữ húy, ẩn húy, tên húy, phạm húy.
Như húy danh là tên phải kiêng cử, ngày xưa đi thi phải thuộc làu hết húy danh của vua để tránh, nếu phạm húy thì sẽ bị đánh rớt, bị phạt. Trong sách Thiền Kế Uyển Đăng Lục có câu: Chu Mục Vương chi tự (寺), tức Chu Mục Vương chi thời (時), chữ thời khắc thiếu bộ nhật (日), là đô kỵ húy vua Tự Đức, vì ông hiệu là Phúc Thì (Thời). Đây là bản khắc vào triều Nguyễn đời vua Tự Đức nên phải như thế.
Còn chữ Kỵ l à kiêng cữ, tạm gác, hôn kỵ, kỵ mã, vua chúa. Kỵ nhật tức là ngày giỗ, ngày cúng cơm người mất Mỗi năm, thường thì tính theo Âm lịch.
Như vậy Húy Kỵ theo tiếng động từ có nghĩa là kiêng cữ. Húy nhật là ngày giỗ kỵ.
* NGÀ TIÊN THƯỜNG VÀ CHÁNH KỴ:
Trong việc cúng vào ngày Giỗ thì bao gồm 2 lễ quan trọng: Lễ Tiên thường (先嘗) lễ cúng vào ngày trước người mất qua đời 1 hôm, Lễ Chính kỵ (正忌) chính là ngày mất.
Tiên Thường còn được gọi là ngày Cáo Già, tức giận trước 1 ngày người qua đời. Trong ngày này, con cháu dâng lời tri ân cho người đã khuất hôm sau về tri ân.
Khi cúng, gia chủ cần phải cúng để mời người được hưởng vinh dự trước, tiếp theo mới mời Gia tiên nội ngoại từ cấp cao nhất đến thấp nhất và báo cáo thỉnh Gia thần cùng về đây để dự Lễ Giỗ.
Đối với thế tục, trước giám kỵ một ngày, thì có lễ thỉnh cửu huyền, tiên linh; còn trong nghi lễ Phât giáo thì có Nghi thỉnh Giác linh, Thỉnh Tổ sư. Vào ngày vướng gọi là ngày Tiên thường nghĩa là lễ tiên thường, lễ tiên thường, lễ cúng sơ sơ trước ngày giỗ một hôm, như chúng ta thường nghe: Cúng tiên thường, lễ tiên thường, hôm nay là lễ tiên thường của thầy tôi, cha mẹ… chúng tôi, mai là ngày tổng giám đốc mời các vị đến tham dự.
Vào ngày ở thì những người quen biết hay đã từng sống ân, vì nhớ tưởng đến người đã qua đời, đến để truy niệm, thông thường người Việt Nam ta gọi là ngày giỗ, ngày kỵ.
Tại sao gọi là kỵ? Chữ kỵ có nghĩa là tránh né kiêng kỵ, vì vào ngày ám ảnh những người thân thuộc tránh những cuộc vui chơi, tập trung lại một chỗ để tụng kinh niệm phật tu phước, tổ chức pháp hội, tang tế trai tăng… để hồi hướng công đức cho người quá vãng, nương nương nhờ công đức đạo lực tồn tại mà đạo phẩm thêm cao.
Ngày kỵ một tháng sau khi người qua đời thì gọi là Nguyệt kỵ, sau 35 ngày gọi là Đại kỵ kỵ, sau 49 ngày gọi là Đại kỵ kỵ.
Ngày kỵ đúng theo tháng mà người qua đời gọi là tổng giám đốc, có khi gọi là tường nguyệt, tường nguyệt mệnh nhật.
hôm trước của ngày hầu cận được gọi là Túc khanh. Ngày tân hôn tròn một năm được gọi là Tiểu tường hầu. Ngày tân hôn đúng hai năm được gọi là Đại tường kỵ, tam khải công,… những danh từ đại tường, tiểu tường,… được chép lại rất rõ trong sách Lễ ký. Tuy nhiên những từ ngữ đều mượn được sử dụng trong thuật ngữ của các Nho gia”
Ngoài ra, cứ 7 ngày thiết lập một tuần trai, đến 49 ngày gọi là trung ấm pháp yếu, còn gọi là: tuần tứ cửu, tuần định nghiệp, tuần chung thất,… đúng 100 ngày thiết trai hội gọi là tuần báo .
Nghi thức thiết trai tụng kinh vào ngày kỵ đã có từ thời đức Phật, trong kinh điển Phật giáo cũng đề cập rất nhiều về pháp sự.
Kinh phạm võng, lục hạ chép: “Khi cha mẹ, anh nhi, hòa thượng, A Xà Lê qua đời, trong vòng 21 ngày đến 49 ngày nên đọc tụng Kinh Luật đại thừa”.
Thích Thị Yếu Lãm chép: “Ngày 15 tháng 2 Âm lịch là ngày Phật Niết Bàn, Tăng tục ở khắp nơi có lập hội để cúng dường, tức là có công việc gì vào ngày đó phải nên tránh kỵ. Theo lễ ở thế tục thì người quân tử có cái hiếu trọn đời, nghĩa là ngày kỵ vậy. Lại gọi là ngày không vui, vì không nên hưởng thụ cái vui, có khi gọi là húy nhật, hoặc viễn nhật. Hàng Thích tử khi có Thầy qua đời thì nên gọi là ngày qui tịch, bởi họ Thích không có kỵ húy.
Đám giỗ là đáo lệ cúng hằng năm, đúng ngày chết của một người nào đó, còn gọi là: ăn đám giỗ, dọn đám giỗ.
Người Việt Nam ta, cúng giỗ còn gọi là cúng quải, là tên gọi chung cho các cuộc cúng cơm thầy Tổ, ông bà, cha mẹ,… kể từ sau khi mãn tang.
Giỗ là một buổi lễ, theo nghi thức phong tục tập quán của người Việt, nhằm tưởng nhớ đến những người đã khuất. Giỗ được tổ chức cúng vào đúng ngày người mất theo Âm lịch.
Ý nghĩa của giỗ là để nhắc nhở con cháu về những đạo đức đẹp của người đi trước, gắn kết tình cảm các thành viên trong một gia đình, dòng họ, làng xóm, đôi khi trong cùng ngành nghề.
Cúng giỗ là ngày bày tỏ tấm lòng thương xót, sự nhớ tưởng của người đang sống với người đã khuất, thể hiện đạo hiếu đối với Tổ tiên. Trong đạo Phật cũng vậy, khi giỗ thầy Tổ, đây cũng là dịp nêu cao lòng hiếu kính biết ơn sâu sắc.
Nhà giàu thì tổ chức làm giỗ linh đình, mời người thân trong dòng họ, bạn bè gần xa, anh em bằng hữu về dự giỗ. Nhà nghèo thì chỉ cần nhang đèn bông trái, vài món ăn giản dị cúng người mất cũng được rồi.
*GIỖ ĐẦU, GIỖ HẾT, GIỖ THƯỜNG:
Đây là 3 giỗ quan trọng trong Nghi lễ thờ cúng:
Giỗ Đầu gọi là Tiểu Tường (chữ Hán: 小祥), là ngày giỗ đầu tiên, sau thời gian người mất đúng một năm, nằm trong kỳ tang chế, là một ngày giỗ vẫn còn bi ai, sầu thảm. Thời gian một năm vẫn chưa đủ để làm khuây khỏa những nỗi đau buồn, xót xa trong lòng của những người thân. Trong ngày Giỗ Đầu, những người thọ tang vẫn mặc đồ tang phục.
Giỗ Hết gọi là Đại Tường (chữ Hán: 大祥), là ngày giỗ sau thời gian người mất hai năm, vẫn nằm trong kỳ tang chế. Thời gian hai năm cũng vẫn chưa đủ để hàn gắn những vết thương trong lòng những người còn sống. Trong lễ này, người ta vẫn tổ chức trang nghiêm, những người thọ tang vẫn mặc đồ tang phục.
Giỗ Thường còn gọi là ngày Kiết Kỵ (chữ Hán: 吉忌), là ngày giỗ sau thời gian người mất từ ba năm trở đi. Kiết Kỵ nghĩa là Giỗ lành. Trong lễ giỗ này, con cháu chỉ mặc đồ thường phục, lúc nầy sự bi ai, sầu thảm, đã nguôi ngoai, là dịp để con cháu sum họp để tưởng nhớ người đã khuất.
Theo nghi tiết thế gian, ngày giỗ thường được duy trì đến hết năm đời. Sau năm đời, vong linh người quá cố kể như đã được siêu thoát, đầu thai hóa kiếp trở lại, nên không cần thiết phải cúng giỗ nữa mà nạp chung vào kỳ xuân tế. Cúng giỗ tùy theo hoàn cảnh khả năng, không nhất thiết phải quá linh đình cầu kỳ, nhà nghèo chỉ cần giữ đạo hiếu với Tổ tiên là được.
Còn trong Thiền môn đặc biệt nhất là những chốn Tổ Đình, mỗi một năm có rất nhiều lễ giỗ, thậm chí một tháng có tới 6 lễ giỗ, như vậy rồi làm sao? Thường trong Tông môn họp lại chọn ngày giỗ của vị khai sơn hoặc vị Tổ nào đó mà kỵ chung hết, trường hợp nầy gọi là Hiệp Kỵ. Như Tổ đình Chùa Hội Phước – Nha Mân, hằng năm Hiệp Kỵ chư vị tiền bối Tổ sư vào ngày giỗ Tổ khai sơn tức mùng 3 tháng 3 Âm lịch. Có nơi thì cứ xoay vần năm nầy giỗ vị A lớn, năm sau đổi lại vị B…, cứ xoay vần như thế cho đến hết, rồi trở lại như ban đầu. Tuy nhiên, đây là một sự tùy nghi thống nhất của Chư sơn trong tông môn.
Nhìn chung ngày giỗ kỵ thầy tổ, ông bà cha mẹ đối với những người tin Phật, thì mỗi người thân quen dù xa hay gần, bận bịu cách mấy đi nữa cũng nán lại mọi công việc, sắm sửa lễ vật ít nhiều mang dâng lên bàn thờ người đã quá vãng, thắp hương, lễ lạy… có khi phải đến trước vài ngày để bao sái, sắp đặt trang nghiêm từ đường,… gọi là bày tỏ chút lòng thành kính tưởng niệm người đã quá vãng mà ta từng thọ ân tiếp nối. Và đồng thời vào ngày nầy cũng là dịp mọi người trong thân tộc họ hàng, thầy trò, tình huynh nghĩa đệ gặp nhau đông đủ, trau đổi những kinh nghiệm tu tập, cuộc sống đời thường, ôn lại công hạnh của người quá vãng… Tinh thần ấy gọi là hiếu kính, tri ân báo ân, hoài niệm người đã khuất trong ngày giỗ kỵ.
Phù sanh kiếp sống có bao lâu
Kẻ ở người đi vạn nỗi sầu
Thăng trầm tội phước nào ai biết
Thoáng chốc ngày qua trải mấy thâu.
◊◊———————————————— —◊◊
THÍCH THỊ PHƯỚC
Từ đó, nguồn cội yêu thương hiếu đạo đã được khơi dậy một cách mạnh mẽ, nên rằm tháng bảy trở thành một lễ hội truyền thống tri ân cao quý của Phật giáo: Tết trung nguyên, rằm tháng bảy, địa quan xá tội, Mục liên cứu mẹ, lễ tự tứ,…Đây là ngày lễ truyền thống của đạo lý Việt Nam, dạy cho mọi người xóa bỏ hận thù, biết làm mới với tinh thần “Xá Tội – tha thứ những lỗi lầm”.
Con quỳ lạy Phật Thích Ca
Chứng minh đệ tử tên là Mục Liên
Lòng con mộ đạo tu hiền
Xuất gia theo Phật cầu nguyền hôm nay.
Nghe kinh Phật thuyết bảy ngày
Minh tâm kiến tánh như lai trọn lành
Lục thông đầy đủ nên danh
Muốn tìm Cha Mẹ lòng thành gắng công.
Đền ơn cho bú ẵm bồng
Liền dùng đạo nhãn xem liền thế gian
Thấy vong Mẹ khổ muôn vàn
Ốm gầy đói khát trong đàng quỷ ma.
Mục Liên kêu Mẹ khóc la
Đau lòng thương Mẹ đọa sa Diêm đình
Thanh Đề nhìn thấy con mình
Mục Liên cứu Mẹ hết tình gắng công.
Con ơi! Mẹ đói trong lòng
Mục Liên nghe nói khóc ròng thở than
Vội vàng trở lại thế gian
Bới cơm một bát đem sang Mẹ mừng.
Và cơm vô miệng nửa chừng
Chén cơm hóa lửa phừng phừng thành than
Mục Liên xem thấy kinh hoàng
Trong lòng đau đớn khóc than buồn tình.
Mẹ ơi! Niệm Phật độ mình
Trở về lạy phật cầu xin Mẹ già
Thích Ca Đức Phật phân qua
Mẹ ngươi tội nặng đọa ra nghiệp hành.
Ta truyền cứu tế pháp lành
Cần cầu Tăng chúng tịnh thanh chú nguyền
Cầu cho Phụ Mẫu hiện tiền
Lục thân quyến thuộc bình yên đều hòa.
Bảy đời Phụ Mẫu đã qua
Về Trời hưởng phước sáng lòa hào quang
Vui chơi thong thả thanh nhàn
Ngày rằm tháng Bảy lập đàn trai tăng.
Sắm cơm trăm món đồ ăn
Trái cây ngũ quả hương đăng rõ ràng
Chiếu, giường, bồn nước, mùng, màn
Dầu, đường, trà lá, bát vàng đựng cơm.
Những đồ vật quý bông thơm
Thành tâm dọn tiệc Lan Bồn phân minh
Cúng dường Tam Bảo cầu Kinh
Chư Tăng tịnh giới giữ gìn nghiêm trang.
Cầu cho Thí chủ Trai đàn
Tâm hành thiền định vái van chúc nguyền
Thanh Đề khổ ách hết liền
Ngày rằm tháng Bảy thành tiên về Trời.
Noi gương hiếu thảo đời đời,
Xót thương Phụ Mẫu hiện thời nuôi con.
Nhai cơm cho bú hao mòn
Ơn sâu nghĩa nặng thương con hết lòng.
Trời cao đất rộng mênh mông
Biển hồ lai láng sánh đồng Thái sơn
Tu hành báo tứ trọng ân
Độ đời ba cõi sạch trơn trọn lành.
Mục Liên đại hiếu tu hành
Báo ân Phụ Mẫu nên danh độ đời.
Câu chuyện của hai đóa hồng trong đêm trước ngày Vu Lan. Đó là Hồng Nhung đỏ Giảm và Hồng trắng tinh khôi.
Ngày lễ Vu La n người ta cài lên cánh mình đóa Hồng Nhung nếu họ may mắn còn có mẹ, người mất mẹ cài đóa Hồng trắng cho mình.
Đêm tháng 7 Âm lịch. Ngày trăng thứ 14 đủ tròn và sáng để chiếu lên vạn vật. Vườn hồng nằm dưới ánh trăng vàng dịu dàng. Tia sương của đêm đọng lại lá, lên những cánh hồng. Những đóa hồng tỏa mùi thơm khắp không gian về đêm. Chỉ còn đêm nay nữa thôi, sáng mai sớm hết những thứ đóa hồng này sẽ được ngắt, để người đời dùng chúng thay cho lời tri ân với mẹ! Ngày Lễ Vu Lan.
Hồng Trắng được trồng cạnh Hồng Nhung. Hồng Trắng say sưa tận hưởng cái lạnh của sương, uống lấy từng giọt sương để khiến mình có thể rực rỡ nhất vào ngày mai. Đóa Hồng Nhung nhìn bạn đang cố gắng hết sức có thể để tăng nhựa sống cho mình, Hồng Nhung rụt rè nói với bạn:
– Hồng Trắng ơi, mai là ngày lễ Vu lan rồi, cậu có buồn không?
– Tại sao lại buồn chứ?
Gương mặt Hồng Trắng vẫn tươi tắn lạ thường. Hồng Nhung khẽ khàng:
– Tớ không biết vì sao trong ngày lễ Vu lan con người lại dùng tớ, một loài hoa hồng mang màu đỏ để dành cho những người còn mẹ trên đời. Còn cậu – loài hoa hồng trắng luôn phải dành cho những người đã mất mẹ. Có khi nào cậu thấy buồn không?
– Không đâu, tớ không phải là đại diện cho sự bất hạnh của những người mất mẹ, tớ thay họ nói lên tình yêu vô bờ bến mà họ dành cho mẹ. Họ dùng tớ để thay lời cảm ơn và thể hiện lòng kính yêu với mẹ, ngay cả khi mẹ không còn trên thế gian này nữa. Được cài trước lồng ngực của những người mất mẹ, tớ nghe được tiếng thổn thức, một nỗi xót xa trào dâng qua từng nhịp đập của con tim.
- Nhưng những người còn mẹ sẽ vui vẻ hơn những người mất mẹ vì vậy nếu được chọn cài lên ngực những người còn mẹ sẽ hạnh phúc hơn rất nhiều phải không nào? Hồng Nhung gặng hỏi bạn.
- Tôi nghĩ đến tớ khi nằm trên thăng của người khác, những người may mắn còn mẹ sẽ hiểu họ cần phải làm gì xứng đáng với ân huệ mà cuộc đời còn dành cho họ. Họ cần phải có nhiều hơn để đến một ngày nào đó khi phải cài đặt lên vũ khí, họ không cảm thấy ân hận vì mình đã không làm một người tốt. Tôi hạnh phúc khi nói thay tình yêu của những người mất mẹ và nuôi dưỡng tới những người còn mẹ. Tôi đã làm giả sứ của tình nguyên tử quý giá.
Hồng Nhung nhìn Hồng ngưỡng ngưỡng. Cả hai yên lặng hút dưỡng dưỡng từ đất và uống sương đêm để mình đẹp hơn vào ngày mai.
(Diệu Bạch St)
◊-◊—————————————– ———————-◊-◊
NĂM THÁNG DẦN TRÔINĂM THÁNG DẦN TRÔI
Thích Thiện Phước
Cuộc đời là một hành trình luôn đưa ta về phía trước, không giậm chân tại chỗ, không lùi lại phía sau, từng bước chân trải dài ấy, luôn mang theo: Ước mơ thách thức, hạnh phúc niềm đau, nụ cười tiếng khóc, thất bại thành công, nhục vinh được mất,… có người đạt được đỉnh cao của sự nghiệp một cách mau chóng dễ dàng khi còn rất trẻ, có người lận đận mãi vẫn không thành, có người thì chưa lên đến đài vinh quang thì nhìn lại đã già, hơi tàn sức kiệt, rồi phải chống chọi chịu đựng với bệnh tật, như chờ đợi đến hồi kết thúc một chuyến đi xa…
Ai cũng có một thời vẫy vùng xông pha nơi chân trời góc biển, rồi cũng có lúc phải thu mình bình lặng chốn quê nhà, vui cùng cỏ nội mây ngàn, đếm từng giọt mưa rơi như dòng thời gian của đời người đang trút xuống… trở về sống cho mình, ngồi cắt móng tay, đếm từng hơi thở, soi gương nhìn mặt mình thật kỹ thật lâu, để thấy những nếp nhăn in đậm nét phong trần, thấy mây bay cuối tận chân trời mà lòng đầy xao xuyến, bỗng quên đi bao ký ức về cuộc đời thành bại nhục vinh, đã là lữ khách trần gian thì cái gì là của họ của ta, đến lúc an lòng nhìn lại buông xuôi muôn duyên để nhẹ lòng cho một chuyến đi về…“cô đơn không hẵn một mình, một mình không hẵn cô đơn”, chim hót, lá rơi, bầu trời đầy sao đêm…chỉ một mình ta nhưng ngập tràn hạnh phúc bao la.
Mờ sáng rừng thiền chưa dọi nắng
Đêm về hoa cỏ cũng lặng yên
Từng tiếng chim kêu bình minh dậy
Sương lờ bóng nguyệt giới hương bay.
Thật ra, đời người mau chóng lắm bạn, tất cả mọi chúng ta đều sẽ có ngày ly biệt và đến điểm dừng, đó là ngày mà mình rời xa thế giới nầy, ly biệt người thân thương, mọi thứ mà ta gắn bó trân quí yêu thích rồi cũng phải buông xuôi, ta không giữ mãi những gì mình có được, mất mát, đổi thay, tàn hoại…vì thế gian là vô thường, có một thứ không bao giờ thay đổi, đó là luôn luôn thay đổi, sống ở đời đôi lúc cũng phải tuỳ duyên, thay đổi chính mình cho phù hợp với thời đại hoàn cảnh, nếu ta không thay đổi thì sẽ bị thay thế và lùi về phía sau.
Nếu biết còn vài ngày, vài giờ, vài phút giây nữa để sống, thì bạn sẽ sống như thế nào, và làm gì cho khoảng thời gian còn lại của mình?… Ai nấy đều có nỗi khổ niềm đau, vì vậy cho dù hoàn cảnh nào, ta phải sống tràn ngập tình thương yêu: Bản thân, mọi người và muôn loài, khi tình thương đủ lớn thì cánh cửa khổ đau cũng dần khép lại, xin cho đi tình thương vô hạn bằng nhiều phương diện ở trong đời.
Lạy Phật mong sao cho con và mọi người mọi loài sống an lành tự tại, như cánh hạc tung bay giữa bầu trời cao rộng thênh thang, như những đám mây nhẹ nhàng phiêu bồng cao vút chốn thiên không, như dòng nước thì thầm len lõi xuyên qua mọi ngóc ngách của vũ trụ bao la, thong dong từng bước chân đi ngang cuộc đời một cách an toàn không vướng mắc, như làn gió thổi qua những cánh đồng hoa cỏ, mang theo hương thơm vi diệu lan tỏa khắp mọi chân trời.
Thời gian của kiếp người là một nguồn tài nguyên có giới hạn, không thể tái chế, mua bán, trao đổi, tiền bạc châu báu mất đi hôm nay, ngày mai có thể tìm được, còn thời gian trôi qua rồi, sẽ không bao giờ trở lại. Món quà vô giá này, tạo hóa đã ban cho chúng ta và muôn loài đồng đều như nhau. Mỗi ngày đêm có 24 giờ đồng hồ, nhưng chúng ta sử dụng vào việc gì, đó là chuyện cá nhân của từng người…
Đời người sống vài mươi năm, thật quá ngắn ngủi so với vòng luân hồi vô tận. Mỗi một hành nghiệp của chúng ta, dù tốt hay xấu, đều ẩn tàng lý nhân quả ở đó. Vì vậy, khi được làm thân người, bạn hãy tận dụng cơ hội hiếm có nầy, cố gắng sống nhân từ, đạo đức, chân chánh, trung nghĩa, thanh cao, liêm khiết,… trải lòng yêu thương giúp đỡ mọi người.
Cuộc đời, vốn dĩ có nhiều sự bất an đau khổ, ta nên sống sao cho có ý nghĩa, mang lại niềm vui cho mình và người. Ngày ngày tu nhân tích đức, sớm sớm tinh tấn công phu, cầu mong cho mọi người hết khổ, sống đời an vui hạnh phúc trong cõi phù du mộng ảo nầy.
Tuy nhiên, cuộc đời thật tươi đẹp cho những ai sống chân thật với nó: Và vẫn còn đâu đó những khoảng trời bình yên vô hạn, những đàn cò trắng bay lượn xa xa trên cánh đồng lúa bất tận giữa buổi chiều thu nhạt nắng, những khu rừng nguyên sinh xanh thẳm bao la, những dòng sông tĩnh lặng uốn khúc êm đềm, những chú ong dễ thương chăm chỉ hút mật, những đàn bướm bay chập chờn trong vườn hoa cỏ dại khi bình minh về còn đượm thấm sương đêm….thành trụ hoại không – thế gian vô thường, sanh già bệnh chết – thân người giả tạm, xuân hạ thu đông – năm tháng dần trôi, lá rụng về cội nước chảy ra khơi, an nhiên cho một chuyến đi về,…
Thong dong ở mọi phương trời
Mây bay gió thổi mong đời an yên.
Gót chân thoát tục tuỳ duyên
Lối về hoa cỏ thiên nhiên thanh nhàn.
Nha Mân, 03/2023.
Kinh Vu Lan – Thích Thiện Phước.