“Tảo Địa” là âm Hán Việt, chúng ta thường gọi là: Quét nhà, quét đất, quét rác, quét chùa, quét sân, quét bụi… Nói chung, dưới nền đất bị dơ, dùng chổi để quét cho sạch thì gọi là “Tảo địa”. Chổi thì dùng tàu dừa, tàu cau, cành cây, cành tre trúc, bông lau…bó lại thành, có tra cán dài để cầm quét. Ngày nay công nghệ phát triển, thì người còn sáng tạo thêm chổi quét bằng nhựa, chổi quét nhà đa năng, máy quét,…Công đức Tảo địa rất lớn, có nguồn gốc từ thời Phật còn tại thế.
Đại thừa Phật giáo, đặc biệt Thiền Tông Trung Quốc cho rằng: “Tất cả những công việc trong sinh hoạt hằng ngày đều đạt đến mục đích tu tập. Cho nên nói gánh nước, bửa củi, mặc áo, ăn cơm đều là Phật pháp”.
Lúc Phật ở rừng Thệ Đa, thấy đất dơ, Ngài muốn khiến cho chúng sanh được phước vui, ở trong ruộng phước thù thắng, gieo trồng nghiệp thanh tịnh. Phật liền cầm chổi quét. Bấy giờ có đại Thanh Văn thấy vậy, cầm chổi quét theo. Phật dạy: Phàm quét đất có 5 việc thù thắng :
1/ Tự tâm thanh tịnh
2/ Khiến tâm người thanh tịnh
3/ Chư Thiên hoan hỉ
4/ Gieo trồng hạnh nghiệp đoan chính
5/ Mạng chung sanh về cõi Trời
Kinh A Hàm chép : “Đức Phật dạy Châu Lợi Bàn Đặc, tụng 2 chữ “Chổi quét”, lại dạy cầm chổi quét. Phật bảo: Thầy tụng 2 chữ nầy vì mục đích gì? chữ chổi quét nầy còn gọi là trừ sạch dơ bẩn. Bàn Đặc liền tư duy: “Dơ bẩn tức là chỉ cho bụi đất gạch đá vậy. Còn chữ trừ là thanh tịnh. Phật đem chuyện nầy để dạy mình, Ngài muốn khiến cho mình tư duy về sự ràng buộc bụi bặm dơ uế, dùng trí tuệ để trừ, vậy bây giờ mình dùng trí tuệ để quét, để trừ hết những nghiệp cấu ràng buộc, nhân đây mà Tôn giả chứng quả A La Hán”.
Kinh Tăng Nhất chép: “Nói đến việc quét đất thì có 5 việc không được phước báu nghĩa là: Không biết ngược gió, không biết thuận gió, không biết gom lại, không quét sạch phân dơ, quét mà không sạch”.
Luật Tứ Phần chép: “Quét ngược gió không sạch, không trừ bỏ phân dơ, không quét lại chỗ cũ”.
Kinh Chánh Pháp Niệm chép: “Nếu quét Tháp của Như Lai, khi mạng chung liền sanh về cõi Trời, hương thơm xông khắp 100 do tuần”.
Trong oai nghi của thầy Sa di Phật cũng dạy rõ về phương pháp quét đất: “Không được nhóm bụi ngay cánh cửa, không quét ngược gió…”.
Lục Tổ Huệ Năng có nói một câu rất nổi tiếng: “Phật pháp ở thế gian, không lìa thế gian mà giác ngộ được. Lìa thế gian mà truy tìm sự giác ngộ, giống như tìm lông rùa sừng thỏ”.
Cho nên nói Phật pháp trong sinh hoạt hằng ngày, nếu lìa bỏ thế gian mà tìm Phật pháp thì giống như tìm lông con rùa, sừng con thỏ, thật không thể tìm được. Như vậy Tảo địa là một việc làm trong sinh hoạt hằng ngày. Mọi người đều hiểu, mỗi nhà đều làm. Thế nhưng việc Tảo địa trong nhà Phật có một nguồn gốc rất đặc biệt.
Sở dĩ nhà Phật chú trọng việc quét bụi bặm là vì tất cả những hiện tượng ở thế giới bên ngoài đều thuộc trần. Tổng cộng có 6 trần, thường tiếp xúc với 6 căn. Trần chính là sự cấu nhiễm, do 6 trần này mà làm cho bản tánh sáng suốt của con người bị ô nhiễm đi. Khi 6 căn tiếp xúc với 6 trần như: Lúc mắt thấy sắc đẹp, lúc tai nghe tiếng thì hay sanh ra những nhận thức phân biệt hư vọng, rồi dấy khởi lên rất nhiều phiền não. Cho nên người tu hành phải diệt trừ những trần ô cấu nhiễm này, mà trong Thiền Tông gọi là: “Xa hẳn căn trần, linh quang xán lạn.”, cũng chính là biểu đạt sự giác ngộ một cách triệt để về các pháp thân xưa nay vốn thanh tịnh. Ngoài ra nhà Phật cũng xưng cải tâm là tâm địa, nhân vì tâm địa thanh tịnh thì cõi Phật thanh tịnh, tức là ngay trong lúc nội tâm của mỗi con người sạch sẽ thì họ sẽ ở trong cái hoàn cảnh tốt đẹp. Cho nên gọi là Tịnh độ.
Tịnh độ và uế độ trong nhà Phật là căn cứ vào tâm địa của chúng sanh có thanh tịnh hay không, có cái nhìn như thế thì việc tảo địa trong nhà Phật có một ý nghĩa tượng trưng. Ngoài ra còn một phương diện khác nữa là quét sạch những bụi bặm rác rến ở bên ngoài, cùng một ý nghĩa này thì đồng thời cũng quét sạch những trần cấu trong tâm.
Trong Thiền Tông Trung Hoa ta cũng thấy ý nghĩa này qua 2 bài kệ của Thiền sư Thần Tú và Lục Tổ Huệ Năng.
Một hôm ngũ tổ Hoàng Mai bảo đại chúng làm một bài kệ để trình kiến giải. Ngài Thần Tú bèn viết bài kệ và dán vào vách:
Thân thị Bồ Đề thọ
Tâm như minh cảnh đài
Thời thời thường phất thức
Vật sử nhạ trần ai
(Thân là cây Bồ Đề
Tâm như đài gương sáng
Thời thời luôn quét dọn
Chớ để dính bụi dơ)
Đại chúng xem xong ai nấy đều trầm trồ khen hay. Khi ấy Lục Tổ Huệ Năng biết được điều này cũng muốn làm bài kệ nhưng ngặt nỗi không biết chữ, bèn nhờ người khác viết giùm như sau:
Bồ Đề bổn vô thọ
Minh cảnh diệc phi đài
Bổn lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ trần ai?
(Bồ Đề vốn không cây
Gương sáng cũng không đài
Xưa nay không một vật
Chỗ nào dính bụi dơ?)
Khi bài kệ này dán lên làm kinh động cả đại chúng, vì đạt đến cảnh giới triệt ngộ.
Thiền Tông Trung Quốc chú trọng về việc quét đất vì có 2 nhân tố:
1/ Phật giáo Trung Quốc cải tiến việc khất thực của Phật giáo Ấn Độ, chính là xây dựng Tòng lâm, lập ra qui củ. Từ đời Đường trở về trước cuộc sống của người xuất gia là hoàn toàn nhờ vào sự ngoại hộ của quốc gia và tín chúng cúng dường. Đương thời, những người nào mới bước vào cửa Phật thì phải trải qua những thử thách để tịnh hóa thân tâm, nên làm những công việc rất bình thường như: Gánh nước, bửa củi, quét nhà, giã gạo.
Tổ Bách Trượng Hoài Hải đề xướng: “Một ngày không làm, một ngày không ăn”, cũng chính là nói mỗi người đều phải lao động. Ngay cả vị Phương trượng, đại Pháp sư… đều phải tham gia lao động, rất nhiều vị Thiền sư ngộ đạo trong lúc đang lao động. Trong Bách Trượng Thanh Qui có từ Phổ Thỉnh còn gọi là Xuất Pha, nghĩa là tập trung chư Tăng cả Tòng lâm để lao động tập thể: “Hành Phổ Thỉnh Pháp thượng hạ huân lực dã” (Thực hiện cách tập trung chư Tăng để lao động, mọi người từ trên xuống dưới phải gắng sức).
Ví như Thiền sư Triệu Châu, mỗi ngày tự thân cầm chổi quét dọn Tự viện, một hôm có vị Tăng hỏi: Hòa thượng quét dọn là quét đằng trước Phật hay đằng sau Phật.
Thiền sư Triệu Châu liền đáp: Trước sau đều quét.
Đây là việc quét dọn thông thường được thể hiện qua ý nghĩa đặc sắc của Thiền tông.
2/ Thiền Tông cho rằng việc quét dọn không chỉ tu tập tâm địa mà còn có ý nghĩa rèn luyện thân thể.
Khi hành giả quét đất cũng là phương pháp quán niệm, ta thấy bài kệ sau:
Cần tảo già lam địa
Thời thời phước huệ sanh
Tuy vô tân khách chí
Diệc hữu thánh nhơn hành
Tạm dịch:
(Siêng năng quét sạch đất chùa
Để cho trí huệ bốn mùa phát sanh
Tuy ngày không có khách lành
Thánh nhơn thường đến kinh hành nơi đây)
Ngoài ra còn có Chơn ngôn Tảo địa. Đây là một Chơn ngôn trì tụng khi quét dọn đất cát để kiến lập Mạn Đồ La trong Mật giáo.
“Án, hạ ra hạ ra tổ ngật ra hạ noa dã sa phạ hạ”.
Trong Căn Bản Thuyết Nhất Hữu Bộ Tỳ Nại Da tạp sự quyển 4 chép: “Hành giả khi Tảo địa được 5 thứ Phước báu.
1. Tự tâm thanh tịnh còn gọi là tự trừ tâm cấu: ý nói khi quét đất chùa chiền sạch sẽ thì tâm cũng được sạch sẽ thanh tịnh.
2. Linh thanh tâm tịnh, còn gọi là trừ tha cấu: ý nói sau khi quét người khác thấy đất chùa chiền sạch sẽ, thì tâm họ cũng được thanh tịnh.
3. Chư Thiên hoan hỉ còn gọi là khử kiêu mạn: ý nói người quét đất chùa sạch sẽ giống như trừ bỏ bụi dơ kiêu mạn trong thân mình, Chư Thiên thấy người và đất đều thanh tịnh nên sanh lòng hoan hỉ.
4. Thực đoan chánh nghiệp còn gọi là điều phục tâm: ý nói người quét đất chùa chiền sạch sẽ thì điều phục được thân mình, cũng như gieo trồng phước nghiệp đoan chánh, đời sau nhất định sẽ được tướng mạo và đức nghiệp đẹp đẽ.
5. Mạng chung đương sanh thiên thượng, còn gọi là trưởng công đức: ý nói người quét đất chùa sạch sẽ thì tăng trưởng công đức, vì vậy sau khi mạng chung sẽ sanh về cõi trời.
Trong kinh Vô Cấu Ưu Bà Di chép: “Bấy giờ Vô Cấu Ưu Bà Di, Hiền Ưu Bà Di… đi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ dưới chân Phật rồi lui ngồi một bên. Bấy giờ, Thế Tôn liền bảo Vô Cấu Ưu Bà Di rằng: “Ưu Bà Di, ngươi không có hạnh phóng dật, không có tâm bê trễ chăng?”.
Ưu Bà Di nói: “Con không bê trễ, lại cũng không có hạnh phóng dật”.
Phật bảo Vô Cấu Ưu Bà Di: “Ngươi vì sao thường không có tâm lười biếng và không có hạnh phóng dật?”.
Vô Cấu Ưu Bà Di bạch Phật: “Thế Tôn, con thường dậy sớm quét dọn tháp Phật. Quét xong, con lau dọn bốn phòng ở bốn nơi. Lau dọn sạch sẽ xong, con lại rải hoa thắp hương, cúng dường như thế. Sau đó, con mới trở về phòng, kế đến ngồi thiền, tu bốn pháp phạm hạnh, chẳng lìa ba điều quy y và vâng giữ năm giới cấm. Con luôn hành trì như thế, không bao giờ bê trễ, lại cũng không buông lung”.
Vô Cấu Ưu Bà Di nói xong, lại bạch Phật rằng: “Thế Tôn, con nay vẫn chưa biết quét tháp Phật có được căn lành và phước báo gì? Lau dọn bốn phòng, có được căn lành và phước báo gì? Rải hoa và thắp hương cúng dường tháp Phật, có được căn lành và phước báo gì? Tu bốn pháp phạm hạnh, vâng giữ ba pháp quy y và thọ trì năm điều răn cấm, có được căn lành và phước báo gì? Cúi mong Đức Thế Tôn chỉ bày cho con hiểu”.
Phật bảo: “Vô Cấu Ưu Bà Di, quét tháp Phật có được năm thứ phước báo:
1. Tự tâm thanh tịnh, người khác thấy mình sanh lòng thanh tịnh.
2. Được người khác yêu mến.
3. Chư thiên sanh lòng vui mừng.
4. Gom chứa hạnh nghiệp đoan chánh.
5. Khi mạng chung được sanh lên cõi Trời.
Này Vô Cấu, nên biết, người quét tháp Phật có được những phước báu như thế”.
Việt Nam ta có câu tục ngữ : “Nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm”. Quét đất ý nghĩa thông thường là để vệ sinh sạch sẽ, để có được cảm giác thư thái trong môi trường sống và đồng thời cũng thể hiện sự trân quí khi tiếp đón khách khứa bạn bè…đến trú xứ.
- Trung Quốc thời cổ đại có một phong tục gọi là “Ủng Tuệ” tức là khách vừa đến, thì chủ nhà hai tay cầm theo cái chổi ra tận cửa để nghinh tiếp khách, ý muốn nói rằng nhà cửa đã quét dọn sạch sẽ rất hân hạnh được đón tiếp.
(Theo Lễ Nghi trang 64 của Nguyển Hải Yến biên soạn. NXB Lao Động)
- Khi Vua Cao Tổ đời Hán lên ngôi, cách năm ngày thì đến chầu Thái Công một lần. Thái Công lấy lễ cha con để đối đãi, quan gia lệnh (chức quan thuộc Thái tử, nguyên bản là Trủng lệnh) mới nói khéo với Thái Công.
Cao Tổ tuy là con, nhưng là bậc nhơn chủ rồi vậy. Còn Thái Công tuy là cha, nhưng vẫn thuộc về nhơn thần. Thế thì tại sao để bậc nhơn chủ phải lễ lạy nhơn thần, như thế thì không thi hành cái uy lớn của Thiên tử rồi.
Về sau Cao Tổ đến chầu Thái Công, Thái Công mới “ôm chổi ra cổng đón” mà đi giật lùi. Hán Cao Tổ thất kinh, ông bèn lật đật xuống xe đỡ Thái Công.
Thái Công nói:
- Vua là bậc nhơn chủ, tại sao vì tôi mà làm rối loạn pháp của thiên hạ,
Thế là Hán Cao Tổ suy tôn Thái Công làm Thái Thượng Hoàng.
(Theo Thiền Lâm Bảo Huấn họp chú)
Tuy nhiên nếu như khách đã đến nhà mà mới cầm chổi quét thì đó là một sự khiếm nhã.
Nhìn chung, vì sáu trần ô nhiễm mới có khổ đau, tuy nhiên bản lai diện mục xưa nay vẫn rạng ngời không thay đổi, một khi trừ sạch hết trần cấu rồi thì an vui muôn thuở. Qua việc quét dọn, ta cũng thấy được đời sống tu tập được thể hiện qua mọi thời khắc, mọi cử chỉ trong mọi sinh hoạt hằng ngày. Quan trọng nhất là biết vận dụng tu hành, thân đâu tâm đó, thu nhiếp ba nghiệp vào trong chánh niệm, không cho bụi trần dính vào bản lai thạnh tịnh của mình. Như thế thì tâm như vầng trăng tâm rỡ ở hư không, soi sáng khắp nhơn gian nầy./.
◊◊———————————————————-——————-◊◊
THÍCH THỊ PHƯỚC
Từ đó, nguồn cội yêu thương hiếu đạo đã được khơi dậy một cách mạnh mẽ, nên rằm tháng bảy trở thành một lễ hội truyền thống tri ân cao quý của Phật giáo: Tết trung nguyên, rằm tháng bảy, địa quan xá tội, Mục liên cứu mẹ, lễ tự tứ,…Đây là ngày lễ truyền thống của đạo lý Việt Nam, dạy cho mọi người xóa bỏ hận thù, biết làm mới với tinh thần “Xá Tội – tha thứ những lỗi lầm”.
Con quỳ lạy Phật Thích Ca
Chứng minh đệ tử tên là Mục Liên
Lòng con mộ đạo tu hiền
Xuất gia theo Phật cầu nguyền hôm nay.
Nghe kinh Phật thuyết bảy ngày
Minh tâm kiến tánh như lai trọn lành
Lục thông đầy đủ nên danh
Muốn tìm Cha Mẹ lòng thành gắng công.
Đền ơn cho bú ẵm bồng
Liền dùng đạo nhãn xem liền thế gian
Thấy vong Mẹ khổ muôn vàn
Ốm gầy đói khát trong đàng quỷ ma.
Mục Liên kêu Mẹ khóc la
Đau lòng thương Mẹ đọa sa Diêm đình
Thanh Đề nhìn thấy con mình
Mục Liên cứu Mẹ hết tình gắng công.
Con ơi! Mẹ đói trong lòng
Mục Liên nghe nói khóc ròng thở than
Vội vàng trở lại thế gian
Bới cơm một bát đem sang Mẹ mừng.
Và cơm vô miệng nửa chừng
Chén cơm hóa lửa phừng phừng thành than
Mục Liên xem thấy kinh hoàng
Trong lòng đau đớn khóc than buồn tình.
Mẹ ơi! Niệm Phật độ mình
Trở về lạy phật cầu xin Mẹ già
Thích Ca Đức Phật phân qua
Mẹ ngươi tội nặng đọa ra nghiệp hành.
Ta truyền cứu tế pháp lành
Cần cầu Tăng chúng tịnh thanh chú nguyền
Cầu cho Phụ Mẫu hiện tiền
Lục thân quyến thuộc bình yên đều hòa.
Bảy đời Phụ Mẫu đã qua
Về Trời hưởng phước sáng lòa hào quang
Vui chơi thong thả thanh nhàn
Ngày rằm tháng Bảy lập đàn trai tăng.
Sắm cơm trăm món đồ ăn
Trái cây ngũ quả hương đăng rõ ràng
Chiếu, giường, bồn nước, mùng, màn
Dầu, đường, trà lá, bát vàng đựng cơm.
Những đồ vật quý bông thơm
Thành tâm dọn tiệc Lan Bồn phân minh
Cúng dường Tam Bảo cầu Kinh
Chư Tăng tịnh giới giữ gìn nghiêm trang.
Cầu cho Thí chủ Trai đàn
Tâm hành thiền định vái van chúc nguyền
Thanh Đề khổ ách hết liền
Ngày rằm tháng Bảy thành tiên về Trời.
Noi gương hiếu thảo đời đời,
Xót thương Phụ Mẫu hiện thời nuôi con.
Nhai cơm cho bú hao mòn
Ơn sâu nghĩa nặng thương con hết lòng.
Trời cao đất rộng mênh mông
Biển hồ lai láng sánh đồng Thái sơn
Tu hành báo tứ trọng ân
Độ đời ba cõi sạch trơn trọn lành.
Mục Liên đại hiếu tu hành
Báo ân Phụ Mẫu nên danh độ đời.
Câu chuyện của hai đóa hồng trong đêm trước ngày Vu Lan. Đó là Hồng Nhung đỏ Giảm và Hồng trắng tinh khôi.
Ngày lễ Vu La n người ta cài lên cánh mình đóa Hồng Nhung nếu họ may mắn còn có mẹ, người mất mẹ cài đóa Hồng trắng cho mình.
Đêm tháng 7 Âm lịch. Ngày trăng thứ 14 đủ tròn và sáng để chiếu lên vạn vật. Vườn hồng nằm dưới ánh trăng vàng dịu dàng. Tia sương của đêm đọng lại lá, lên những cánh hồng. Những đóa hồng tỏa mùi thơm khắp không gian về đêm. Chỉ còn đêm nay nữa thôi, sáng mai sớm hết những thứ đóa hồng này sẽ được ngắt, để người đời dùng chúng thay cho lời tri ân với mẹ! Ngày Lễ Vu Lan.
Hồng Trắng được trồng cạnh Hồng Nhung. Hồng Trắng say sưa tận hưởng cái lạnh của sương, uống lấy từng giọt sương để khiến mình có thể rực rỡ nhất vào ngày mai. Đóa Hồng Nhung nhìn bạn đang cố gắng hết sức có thể để tăng nhựa sống cho mình, Hồng Nhung rụt rè nói với bạn:
– Hồng Trắng ơi, mai là ngày lễ Vu lan rồi, cậu có buồn không?
– Tại sao lại buồn chứ?
Gương mặt Hồng Trắng vẫn tươi tắn lạ thường. Hồng Nhung khẽ khàng:
– Tớ không biết vì sao trong ngày lễ Vu lan con người lại dùng tớ, một loài hoa hồng mang màu đỏ để dành cho những người còn mẹ trên đời. Còn cậu – loài hoa hồng trắng luôn phải dành cho những người đã mất mẹ. Có khi nào cậu thấy buồn không?
– Không đâu, tớ không phải là đại diện cho sự bất hạnh của những người mất mẹ, tớ thay họ nói lên tình yêu vô bờ bến mà họ dành cho mẹ. Họ dùng tớ để thay lời cảm ơn và thể hiện lòng kính yêu với mẹ, ngay cả khi mẹ không còn trên thế gian này nữa. Được cài trước lồng ngực của những người mất mẹ, tớ nghe được tiếng thổn thức, một nỗi xót xa trào dâng qua từng nhịp đập của con tim.
- Nhưng những người còn mẹ sẽ vui vẻ hơn những người mất mẹ vì vậy nếu được chọn cài lên ngực những người còn mẹ sẽ hạnh phúc hơn rất nhiều phải không nào? Hồng Nhung gặng hỏi bạn.
- Tôi nghĩ đến tớ khi nằm trên thăng của người khác, những người may mắn còn mẹ sẽ hiểu họ cần phải làm gì xứng đáng với ân huệ mà cuộc đời còn dành cho họ. Họ cần phải có nhiều hơn để đến một ngày nào đó khi phải cài đặt lên vũ khí, họ không cảm thấy ân hận vì mình đã không làm một người tốt. Tôi hạnh phúc khi nói thay tình yêu của những người mất mẹ và nuôi dưỡng tới những người còn mẹ. Tôi đã làm giả sứ của tình nguyên tử quý giá.
Hồng Nhung nhìn Hồng ngưỡng ngưỡng. Cả hai yên lặng hút dưỡng dưỡng từ đất và uống sương đêm để mình đẹp hơn vào ngày mai.
(Diệu Bạch St)
◊-◊—————————————– ———————-◊-◊
NĂM THÁNG DẦN TRÔINĂM THÁNG DẦN TRÔI
Thích Thiện Phước
Cuộc đời là một hành trình luôn đưa ta về phía trước, không giậm chân tại chỗ, không lùi lại phía sau, từng bước chân trải dài ấy, luôn mang theo: Ước mơ thách thức, hạnh phúc niềm đau, nụ cười tiếng khóc, thất bại thành công, nhục vinh được mất,… có người đạt được đỉnh cao của sự nghiệp một cách mau chóng dễ dàng khi còn rất trẻ, có người lận đận mãi vẫn không thành, có người thì chưa lên đến đài vinh quang thì nhìn lại đã già, hơi tàn sức kiệt, rồi phải chống chọi chịu đựng với bệnh tật, như chờ đợi đến hồi kết thúc một chuyến đi xa…
Ai cũng có một thời vẫy vùng xông pha nơi chân trời góc biển, rồi cũng có lúc phải thu mình bình lặng chốn quê nhà, vui cùng cỏ nội mây ngàn, đếm từng giọt mưa rơi như dòng thời gian của đời người đang trút xuống… trở về sống cho mình, ngồi cắt móng tay, đếm từng hơi thở, soi gương nhìn mặt mình thật kỹ thật lâu, để thấy những nếp nhăn in đậm nét phong trần, thấy mây bay cuối tận chân trời mà lòng đầy xao xuyến, bỗng quên đi bao ký ức về cuộc đời thành bại nhục vinh, đã là lữ khách trần gian thì cái gì là của họ của ta, đến lúc an lòng nhìn lại buông xuôi muôn duyên để nhẹ lòng cho một chuyến đi về…“cô đơn không hẵn một mình, một mình không hẵn cô đơn”, chim hót, lá rơi, bầu trời đầy sao đêm…chỉ một mình ta nhưng ngập tràn hạnh phúc bao la.
Mờ sáng rừng thiền chưa dọi nắng
Đêm về hoa cỏ cũng lặng yên
Từng tiếng chim kêu bình minh dậy
Sương lờ bóng nguyệt giới hương bay.
Thật ra, đời người mau chóng lắm bạn, tất cả mọi chúng ta đều sẽ có ngày ly biệt và đến điểm dừng, đó là ngày mà mình rời xa thế giới nầy, ly biệt người thân thương, mọi thứ mà ta gắn bó trân quí yêu thích rồi cũng phải buông xuôi, ta không giữ mãi những gì mình có được, mất mát, đổi thay, tàn hoại…vì thế gian là vô thường, có một thứ không bao giờ thay đổi, đó là luôn luôn thay đổi, sống ở đời đôi lúc cũng phải tuỳ duyên, thay đổi chính mình cho phù hợp với thời đại hoàn cảnh, nếu ta không thay đổi thì sẽ bị thay thế và lùi về phía sau.
Nếu biết còn vài ngày, vài giờ, vài phút giây nữa để sống, thì bạn sẽ sống như thế nào, và làm gì cho khoảng thời gian còn lại của mình?… Ai nấy đều có nỗi khổ niềm đau, vì vậy cho dù hoàn cảnh nào, ta phải sống tràn ngập tình thương yêu: Bản thân, mọi người và muôn loài, khi tình thương đủ lớn thì cánh cửa khổ đau cũng dần khép lại, xin cho đi tình thương vô hạn bằng nhiều phương diện ở trong đời.
Lạy Phật mong sao cho con và mọi người mọi loài sống an lành tự tại, như cánh hạc tung bay giữa bầu trời cao rộng thênh thang, như những đám mây nhẹ nhàng phiêu bồng cao vút chốn thiên không, như dòng nước thì thầm len lõi xuyên qua mọi ngóc ngách của vũ trụ bao la, thong dong từng bước chân đi ngang cuộc đời một cách an toàn không vướng mắc, như làn gió thổi qua những cánh đồng hoa cỏ, mang theo hương thơm vi diệu lan tỏa khắp mọi chân trời.
Thời gian của kiếp người là một nguồn tài nguyên có giới hạn, không thể tái chế, mua bán, trao đổi, tiền bạc châu báu mất đi hôm nay, ngày mai có thể tìm được, còn thời gian trôi qua rồi, sẽ không bao giờ trở lại. Món quà vô giá này, tạo hóa đã ban cho chúng ta và muôn loài đồng đều như nhau. Mỗi ngày đêm có 24 giờ đồng hồ, nhưng chúng ta sử dụng vào việc gì, đó là chuyện cá nhân của từng người…
Đời người sống vài mươi năm, thật quá ngắn ngủi so với vòng luân hồi vô tận. Mỗi một hành nghiệp của chúng ta, dù tốt hay xấu, đều ẩn tàng lý nhân quả ở đó. Vì vậy, khi được làm thân người, bạn hãy tận dụng cơ hội hiếm có nầy, cố gắng sống nhân từ, đạo đức, chân chánh, trung nghĩa, thanh cao, liêm khiết,… trải lòng yêu thương giúp đỡ mọi người.
Cuộc đời, vốn dĩ có nhiều sự bất an đau khổ, ta nên sống sao cho có ý nghĩa, mang lại niềm vui cho mình và người. Ngày ngày tu nhân tích đức, sớm sớm tinh tấn công phu, cầu mong cho mọi người hết khổ, sống đời an vui hạnh phúc trong cõi phù du mộng ảo nầy.
Tuy nhiên, cuộc đời thật tươi đẹp cho những ai sống chân thật với nó: Và vẫn còn đâu đó những khoảng trời bình yên vô hạn, những đàn cò trắng bay lượn xa xa trên cánh đồng lúa bất tận giữa buổi chiều thu nhạt nắng, những khu rừng nguyên sinh xanh thẳm bao la, những dòng sông tĩnh lặng uốn khúc êm đềm, những chú ong dễ thương chăm chỉ hút mật, những đàn bướm bay chập chờn trong vườn hoa cỏ dại khi bình minh về còn đượm thấm sương đêm….thành trụ hoại không – thế gian vô thường, sanh già bệnh chết – thân người giả tạm, xuân hạ thu đông – năm tháng dần trôi, lá rụng về cội nước chảy ra khơi, an nhiên cho một chuyến đi về,…
Thong dong ở mọi phương trời
Mây bay gió thổi mong đời an yên.
Gót chân thoát tục tuỳ duyên
Lối về hoa cỏ thiên nhiên thanh nhàn.
Nha Mân, 03/2023.
Kinh Vu Lan – Thích Thiện Phước.