Thứ 6, ngày 19 tháng 4 năm 2024
"Mùa báo hiếu ghi công đức mẹ dưỡng cha sinh, Hội Vu Lan nhớ tinh thần thầy tổ truyền dạy" KÍNH MỪNG ĐẠI LỄ VU LAN BÁO HIẾU 2023

100 Pháp Thức Xoa Ca La Ni (Tức chúng học Pháp)

100 Pháp Thức Xoa Ca La Ni (Tức chúng học Pháp) Sách:

Chư Đại Đức, đây là pháp chúng học

mỗi nửa tháng nói,

trong giới kinh chép ra.

1. MẶC NIẾT BÀN TĂNG CHO NGAY NGẮN.

Phật ở nước Xá Vệ, vì lục quần Tỳ kheo mặc Niết Bàn Tăng xốc xếch, cư sĩ chê gièm: “Giống như ngày lễ hội, người trong phường chèo mặc y làm trò hề, cũng giống như vua chúa, đại thần”. Tỳ kheo cử tội, Phật nhân thế quở trách chế giới.

* Nên ngay ngắn.

Mặc y không bằng nhau.

Mặc y thấp: Là nói y bận thấp, dây lưng cột thấp ở dưới rún. Mặc y cao: Là vén cao bằng đầu gối.

Vòi con voi: Là thòng một góc ở phía trước.

Lá cây Đa La: Là thòng hai góc ở phía trước xếp nhỏ lại, bùi nhùi quấn quanh lưng.

* Mặc Niết Bàn Tăng.

Nếu mặc không ngay ngắn mà cố làm thì phạm, phải sám hối tội Đột Kiết La. Do vì cố ý làm nên phạm tội phi oai nghi, Đột Kiết La. Nếu không cố ý làm thì chỉ phạm tội Đột Kiết La. Tỳ kheo Ni, bốn chúng sau đều phạm Đột Kiết La, cho đến thiên sau thành tướng phạm đều căn cứ theo đây.

* Cần phải học.

Không phạm:

Hoặc trong rốn có bệnh nhọt ghẻ, bắt buộc phải mặc thấp, hoặc ở ống quyển có ghẻ nhọt nên phải mặc cao, hoặc trong Tăng Già Lam, ngoài thôn, khi làm việc, khi đi đường đều không phạm.

2. MẶC BA Y CHO CÂN BẰNG.

Phật ở nước Xá Vệ, lục quần Tỳ kheo mặc y xốc xếch. Trưởng giả thấy chê gièm: Sa môn tự xưng là tôi biết chánh pháp, như thế thì có thể thống gì là chánh pháp; mặc y lôi thôi lếch thếch khác chi người tục”. Tỳ kheo đem lỗi nầy bạch Phật, Phật nhân quán sát ba đời mà chế ra giới nầy.

* Nên mặc ba y cho ngay ngắn cần phải học.

Không ngay ngắn trong đây là: Mặc y thấp: Thấp xuống hơn khuỷu tay làm lộ hông.

Mặc y cao: Là cao quá ống quyển.

Vòi con voi là thòng xuống một góc ở đằng trước.

Lá cây Đa La là thòng xuống hai góc ở đằng trước, đằng sau vén cao lên.

Xếp nhỏ tức là xếp rồi may thành viền.

Không phạm:

Vì có ghẻ dưới cánh tay nên mặc thấp, tướng khai cho giống như giới trước.

3. VẮT NGƯỢC Y VÀO NHÀ CƯ SĨ.

Phật ở nước Xá Vệ, lục quần vắt ngược y vào nhà cư sĩ. Cư sĩ chê gièm: “Sa môn không biết mắc cỡ như hạng vua chúa đại thần, cư sĩ”. Tỳ kheo cử tội, Phật quở trách chế giới.

* Không được vắt ngược y.

Hoặc vắt ngược hai bên phải trái lên trên vai.

* Đi vào nhà cư sĩ.

Thôn xóm.

* Phạm Đột Kiết La.

Không phạm:

Hoặc có bệnh ghẻ ở bên hông, trong Tăng Già Lam, đang trên đường đi, khi làm việc.

4. KHÔNG ĐƯỢC VẮT NGƯỢC Y VÀO NGỒI NHÀ

 CƯ SĨ CẦN PHẢI HỌC.

5. Y ÁO QUẤN VÀO CỔ VÀO NHÀ CƯ SĨ.

Phật ở nước Xá Vệ, lục quần dùng y quấn ở cổ rồi vào nhà bạch y. Cư sĩ chê gièm: “Sa môn khác gì hàng trưởng giả, cư sĩ”. Tỳ kheo cử tội, Phật nhân thế quở trách chế giới.

* Không được y áo quấn trên cổ.

Nắm hai chéo y quấn ở trên vai.

* Vào nhà cư sĩ cần phải học.

Không phạm:

Hoặc có bệnh, trên vai có ghẻ, hoặc ở trong Tăng Già Lam, ở ngoài thôn, khi làm việc, lúc đi đường.

6. KHÔNG ĐƯỢC Y ÁO QUẤN TRÊN CỔ
VÀO NGỒI NHÀ CƯ SĨ.

7. TRÙM ĐẦU MÀ VÀO NHÀ CƯ SĨ.

Phật ở nước Xá Vệ, lục quần dùng y trùm trên đầu rồi đi vào nhà cư sĩ, cư sĩ chê gièm rằng: “Sa môn nào có chánh pháp?. Trùm y trên đầu như giặc cướp”. Tỳ kheo nghe được cử tội, Phật nhân thế quở trách chế giới.

* Không được trùm trên đầu.

Dùng lá cây, hoặc dùng những vật vụn vặt khác, hoặc lấy y trùm lên đầu.

* Vào nhà cư sĩ cần phải học.

Không phạm:

Khi có bệnh, bị lạnh, trên đầu có ghẻ, bị mạng nạn, phạm hạnh nạn trùm trên đầu mà đi.

8. KHÔNG ĐƯỢC TRÙM ĐẦU VÀO NGỒI NHÀ CƯ SĨ CẦN PHẢI HỌC.

9. KHÔNG ĐƯỢC NHẢY NHÓT ĐI VÀO NHÀ CƯ SĨ.

Phật ở nước Xá Vệ, lục quần Tỳ kheo nhảy nhót đi vào nhà bạch y. Cư sĩ chê gièm nói: “Tỳ kheo không biết xấu hổ nhảy nhót đi vào nhà người giống như chim sẻ”. Tỳ kheo cử tội, Phật nhân thế quở trách chế giới.

* Không được nhảy nhót đi.

Hai chân nhảy đi.

* Vào nhà cư sĩ cần phải học.

Không phạm:

Khi có bệnh, hoặc bị người đánh, có giặc, có ác thú, gai góc, lội qua hầm hố mương rãnh, hoặc phải nhảy qua chỗ bùn.

10. KHÔNG ĐƯỢC NHẢY NHÓT ĐI VÀO NGỒI

NHÀ CƯ SĨ CẦN PHẢI HỌC.

11. KHÔNG ĐƯỢC NGỒI CHỒM HỔM
TRONG NHÀ CƯ SĨ.

Phật ở nước Xá Vệ, cư sĩ thỉnh Tăng đến nhà thọ trai, lục quần Tỳ kheo ngồi chồm hổm, Tỳ kheo ngồi gần đụng tay, lục quần ngã ngửa lộ hình, cư sĩ chê gièm: “Tỳ kheo gì mà không biết hổ thẹn, lộ hình giống như Bà La Môn”. Hàng Tỳ kheo cử tội, Phật nhân thế quở trách chế giới.

* Không được ngồi chồm hổm trong nhà cư sĩ.

Hoặc ở trên đất, trên giường mà xương khu không chạm đến đất.

* Cần phải học.

Không phạm:

Hoặc lúc có bệnh, bên khu sanh ghẻ nhọt, có cho vật gì, lễ bái, sám hối, thọ giáo giới.

12. KHÔNG ĐƯỢC CHỐNG NẠNH
VÀO NHÀ CƯ SĨ.

Phật ở nước Xá Vệ, lục quần Tỳ kheo chống nạnh đi vào nhà cư sĩ, cư sĩ chê gièm rằng: “Sa môn tự xưng ta là người biết chánh pháp, vậy mà lấy tay chống nạnh đắc chí ngông nghênh như người mới cưới vợ”. Tỳ kheo cử tội, Phật nhân thế quở trách chế giới.

* Không được chống nạnh

Lấy tay chống lên thành góc vuông.

* Đi vào nhà cư sĩ cần phải học.

Không phạm:

Hoặc có bệnh, dưới hông sanh ghẻ, trong Tăng Già Lam, ở ngoài thôn, lúc làm việc, hoặc trên đường đi.

13. KHÔNG ĐƯỢC CHỐNG NẠNH.

Lấy tay chống nạnh thành góc vuông làm trở ngại Tỳ kheo ngồi gần.

* Vào ngồi nhà cư sĩ cần phải học.

14. KHÔNG ĐƯỢC UỐN ÉO THÂN MÌNH
VÀO NHÀ CƯ SĨ.

Phật ở nước Xá Vệ, lục quần Tỳ kheo uốn éo thân mình đi vào nhà cư sĩ. Cư sĩ chê gièm, nói: “Tỳ kheo không biết hổ thẹn, uốn éo thân mình như vua chúa, đại thần”. Tỳ kheo cử tội, Phật nhân thế quở trách chế giới.

* Không được uốn éo thân mình.

Nghiêng mình bên trái phải bước đi vậy

* Vào nhà cư sĩ cần phải học.

Không phạm:

Hoặc bị bệnh, bị người đánh nên nghiêng mình để tránh gậy, ác thú tấn công, hoặc gặp người vác gai nên phải nghiêng mình để né, hoặc qua hầm hố phải nghiêng thân mình để qua, hoặc may y xong xem có ngay ngắn không.

15. KHÔNG ĐƯỢC UỐN ÉO THÂN MÌNH ĐI VÀO

NGỒI NHÀ CƯ SĨ CẦN PHẢI HỌC.

16. KHÔNG ĐƯỢC KHOÁC TAY ĐI VÀO NHÀ CƯ SĨ.

Phật ở nước Xá Vệ, lục quần Tỳ kheo khoát tay đi vào nhà cư sĩ, cư sĩ chê gièm, nói rằng: “Sa môn chẳng biết hổ thẹn, khoác tay như vua chúa, trưởng giả”. Tỳ kheo cử tội, Phật quở trách chế giới.

* Không được khoác tay đi

Thòng cánh tay đưa ra trước bước đi.

* Vào nhà cư sĩ cần phải học.

Không phạm:

Hoặc có bệnh, bị người đánh đưa tay ngăn, hoặc gặp ác thú, người vác gai đi đến phải đưa tay ngăn, nhảy qua mương rãnh, lấy tay ngoắc kêu bạn.

17. KHÔNG ĐƯỢC KHOÁC TAY ĐI VÀO

NGỒI NHÀ CƯ SĨ CẦN PHẢI HỌC.

18. LỘ THÂN VÀO NHÀ CƯ SĨ.

Phật ở nước Xá Vệ, lục quần Tỳ kheo không che mình kín đáo vào nhà cư sĩ. Cư sĩ chê gièm nói rằng: “Tỳ kheo mặc y phục không che mình kín đáo, như Bà La Môn”. Tỳ kheo cử tội, Phật nhân thế quở trách chế ra giới này.

* Khéo che mình kín đáo vào nhà cư sĩ.

Hoặc ở trong thôn xóm, mọi chỗ trên thân thảy đều lộ ra.

* Cần phải học.

Không phạm:

Hoặc có bệnh, hoặc bị trói buộc, hoặc gió thổi làm y bay khỏi thân thể.

19. KHÉO CHE MÌNH KÍN ĐÁO VÀO NGỒI NHÀ CƯ SĨ CẦN PHẢI HỌC.

20. NGOÁI NHÌN ĐI VÀO NHÀ CƯ SĨ CẦN PHẢI HỌC.

Phật ở nước Xá Vệ, lục quần Tỳ kheo ngó ngoái hai bên vào nhà cư sĩ. Cư sĩ chê gièm rằng: “Sa môn như kẻ trộm”. Tỳ kheo cử tội, Phật nhân thế quở trách chế giới.

* Không được ngó ngoái nhìn hai bên.

Hoặc nhìn mọi chỗ ở thôn xóm.

* Đi vào nhà cư sĩ cần phải học.

Không phạm:

Hoặc có bệnh, hoặc ngước nhìn thời tiết, hoặc bị mạng nạn, phạm hạnh nạn phải nhìn mọi chỗ ở hai bên để len lén trốn thoát.

21. KHÔNG ĐƯỢC NGÓ TRÔNG HAI BÊN KHI

NGỒI NHÀ CƯ SĨ CẦN PHẢI HỌC.

22. LỚN GIỌNG ĐI VÀO NHÀ CƯ SĨ.

Phật ở nước Xá Vệ, lục quần Tỳ kheo lớn tiếng kêu réo khi đi vào nhà cư sĩ. Cư sĩ chê gièm rằng: “Sa môn khác gì Bà La Môn, không biết hổ thẹn, không có chánh pháp”. Tỳ kheo cử tội, Phật nhân thế quở trách chế giới.

* Im lặng vào nhà cư sĩ.

Không im lặng trong đây là cao giọng kêu réo, hoặc dặn dò, hoặc lớn tiếng thí thực.

* Cần phải học.

Không phạm:

Hoặc có bệnh, hoặc điếc không nghe cần phải cao giọng dặn nhau, hoặc cao giọng thí thực, hoặc bị mạng nạn phạm hạnh nạn, nếu cao giọng mà đi thì không phạm.

23. VÀO NGỒI NHÀ CƯ SĨ NÓI KHẼ CẦN PHẢI HỌC.

24. ĐÙA CƯỜI KHI VÀO NHÀ CƯ SĨ.

Phật ở nước Xá Vệ, lục quần Tỳ kheo cà rỡn đi vào nhà cư sĩ. Cư sĩ chê gièm nói rằng: “Sa môn không biết hổ thẹn, giỡn cợt y như khỉ đột, có chánh pháp gì đâu?”. Tỳ kheo cử tội, Phật nhân thế quở trách chế giới.

* Không được bỡn cợt.

Nhe răng ra cười.

* Đi vào nhà cư sĩ cần phải học.

Không phạm:

Hoặc có bệnh, hoặc môi đau không khép che được răng, hoặc nghĩ đến pháp hoan hỷ mà cười.

25. KHÔNG ĐƯỢC ĐÙA CƯỜI VÀO NHÀ CƯ SĨ
CẦN PHẢI HỌC.

26. KHÔNG ĐỂ Ý KHI KIẾM THỨC ĂN.

Phật ở nước Xá Vệ, cư sĩ thỉnh Tăng để cúng trai, lục quần Tỳ kheo không để ý khi nhận thức ăn, nên để đổ tháo cơm canh. Cư sĩ chê gièm: “Sa môn không biết nhàm chán, có lòng tham lam nhận lấy cho nhiều, như lúc lúa gạo khan hiếm”. Tỳ kheo cử tội, Phật nhân thế quở trách chế giới.

* Để ý khi nhận thức ăn

Không để ý là khi ăn để cơm canh đổ tháo.

* Cần phải học.

Không phạm:

Hoặc có lúc mắc chứng bệnh nào đó, hoặc thức ăn rơi ở trên bàn.

27. NHẬN THỨC ĂN VỪA NGANG MIỆNG BÁT.

Phật ở nước Xá Vệ, cư sĩ thỉnh Tăng thọ thực lục quần nhận thức ăn tràn trề cả bát, bỏ phí cơm canh. Cư sĩ chê gièm nói: “Tỳ kheo không tàm quý, không biết chán đủ, giống như người nhiều lòng tham lam đói khát”. Tỳ kheo cử tội, Phật quở trách chế giới.

* Nên vừa ngang miệng bát

Không ngang là đầy tràn vậy.

* Nhận thức ăn cần phải học.

Không phạm:

Hoặc lúc có bệnh, bát nhỏ, làm rơi trên bàn.

28. NHẬN CANH VỪA NGANG MIỆNG BÁT.

Phật ở nước Xá Vệ, cư sĩ thiết trai cúng dường, lục quần Tỳ kheo lấy cơm quá nhiều, không còn chỗ chứa canh. Cư sĩ chê gièm: “Tỳ kheo khác gì người tham ăn, đói khát”. Tỳ kheo cử tội, Phật nhân thế quở trách chế giới.

* Nhận canh ngang miệng bát.

Tràn là chảy ra ngoài làm dơ bẩn.

* Cần phải học.

Không phạm:

Là khi có bệnh, hoặc bát nhỏ, thức ăn rơi trên bàn, hoặc nhận vừa ngang miệng bát.

29. NHẬN THỨC ĂN KHÔNG ĐỒNG ĐỀU.

Phật ở nước Xá Vệ, cư sĩ thiết trai cúng dường, tự tay cư sĩ sớt thức ăn. Sau khi tự sớt cơm xong, mới vào trong lấy canh trở ra, khi ra thì cơm ăn đã hết. Bấy giờ cư sĩ sớt canh xong trở vào nhà lấy cơm, khi cơm ra thì canh đã hết. Cư sĩ chê gièm: “Tỳ kheo thật như người đói”. Tỳ kheo cử tội, nhân thế Phật quở trách chế giới.

* Nên cơm canh đều nhau ăn.

Không bằng nhau ở đây là cơm đến mà canh đã hết.

* Cần phải học.

Không phạm:

Hoặc có bệnh, đang lúc cần canh không cần cơm, cần cơm cũng vậy, sắp quá nửa ngày, bị mạng nạn, phạm hạnh nạn, ăn gấp.

30. KHÔNG THEO THỨ LỚP NHẬN THỨC ĂN.

Phật ở nước Xá Vệ, cư sĩ thiết trai cúng dường, tự tay họ sớt thức ăn, lục quần Tỳ kheo không theo thứ lớp nhận thức ăn. Cư sĩ chê gièm: “Sa môn không biết chán đủ, ví như heo, chó, bò, lừa, lạc đà, chim quạ”. Tỳ kheo cử tội, Phật nhân thế quở trách chế giới.

* Nên theo thứ lớp lấy thức ăn

Không theo thứ lớp lấy thức ăn là moi xóc mọi chỗ trong bát để lấy thức ăn mà ăn.

* Cần phải học.

Không phạm:

Hoặc khi có bệnh, hoặc sợ cơm nóng nên moi lựa lấy chỗ nguội để ăn, sắp qua giữa ngày, bị mạng nạn, phạm hạnh nạn phải ăn gấp.

31. MOI XÓC GIỮA BÁT ĂN.

Phật ở nước Xá Vệ, cư sĩ thiết trai cúng dường, tự tay họ sớt thức ăn. Lục quần Tỳ kheo nhận thức ăn bằng cách xới ở giữa bát khiến họ nhìn thấy lỗ trống. Cư sĩ chê gièm: “Tỳ kheo lấy thức ăn như bò, lừa, ngựa, lạc đà, heo, chó”. Tỳ kheo bạch Phật, nhân thế Ngài quở trách chế giới.

* Không được moi giữa bát

Tức là xung quanh để nguyên, moi ở chính giữa xuống đụng đến đáy bát ăn.

* Cần phải học.

Không phạm:

Hoặc khi có bệnh, sợ thức ăn nóng moi chính giữa khiến cho nguội hoặc giữa ngày sắp qua, hoặc mạng nạn, phạm hạnh nạn, ăn gấp nên khoét ở giữa.

32. VÌ MÌNH ĐÒI THỨC ĂN.

Phật ở nước Xá Vệ, cư sĩ thiết trai cúng dường, lục quần Tỳ kheo vì mình mà đòi thức ăn, như kẻ đói khát. Cư sĩ chê gièm: “Sa môn có chánh pháp gì đâu? nhận lấy không biết chán”. Tỳ kheo cử tội, Phật nhân thế quở trách chế giới.

* Không bệnh.

Có bệnh thì khai cho tự vì mình mà đòi thức ăn.

* Không được tự vì mình đòi cơm canh cần phải học.

Không phạm:

Hoặc có bệnh, vì người người khác, người khác vì mình, không cầu mà được.

33. LẤY CƠM ĐẬY CANH.

Phật ở nước Xá Vệ, cư sĩ thiết trai cúng dường, (có một Tỳ kheo trong) lục quần Tỳ kheo nhận canh, hàng cư sĩ ghi nhớ theo thứ lớp, để lấy canh sớt tiếp. Sau đó, Tỳ kheo nầy lấy cơm đậy canh lại. Hàng cư sĩ chê gièm rằng: “Sa môn nhận thức ăn không biết chán, như kẻ đói khát, có chánh pháp gì đâu?”. Tỳ kheo cử tội, Phật nhân thế quở trách chế giới.

* Không được lấy cơm đậy canh để mong được thêm cần phải học.

Không phạm:

Hoặc có bệnh, được mời ăn, đang lúc cần canh, hay lúc cần cơm.

34. LIẾC NHÌN BÁT TỲ KHEO NGỒI GẦN.

Phật ở nước Xá Vệ, cư sĩ sắm thức ăn vì lục quần được ít còn Tỳ kheo ngồi gần được phần nhiều, nên nói với cư sĩ rằng: “Ngươi nay thỉnh Tăng tùy ý muốn cúng bao nhiêu thì cúng à?”. Cư sĩ có ái đáp: “Chúng con cúng dường bình đẳng”. Tỳ kheo cử tội, Phật nhân thế quở trách chế giới.

* Không được nhìn trong bát người ngồi gần.

Liếc nhìn trong đây là xem coi ai nhiều ai ít.

* Mà ăn cần phải học.

Không phạm:

Tỳ kheo ngồi gần có bệnh, hoặc mắt bị mờ vì nhìn để coi vị ấy được thức ăn hay chưa, tịnh hay bất tịnh, thọ hay chưa thọ, hoặc tự thân có bệnh thì khai cho.

35. KHÔNG ĐỂ Ý TRONG BÁT ĂN.

Phật ở nước Xá Vệ, cư sĩ sắm thức ăn cúng dường, lục quần nhận xong liếc ngó hai bên, bất chợt Tỳ kheo ngồi gần lấy bát của vị ấy giấu đi. Tỳ kheo bạch Phật, nhân thế Phật quở trách và chế giới này.

* Phải để ý trong bát mà ăn.

Nghĩa là không dòm ngó hai bên.

* Cần phải học.

Không phạm:

Hoặc khi có bệnh, người ngồi gần mắt bị mờ, những phương tiện như trước, hoặc xem coi thì giờ, hoặc khi có mạng nạn, phạm hạnh nạn muốn trốn thoát nên phải nhìn hai bên.

36. VẮT CƠM LỚN MIẾNG MÀ ĂN.

Phật ở nước Xá Vệ, cư sĩ thiết trai cúng dường, lục quần Tỳ kheo vắt cơm lớn miếng đến nỗi đưa không lọt vào miệng, cư sĩ chê gièm: “Sa môn không biết chán đủ, như heo, chó, lạc đà, lừa, bò, chim, quạ”. Tỳ kheo nghe được cử tội, Phật nhân thế chế giới.

* Không được vắt cơm lớn miếng.

Miệng không chứa hết.

* Cần phải học.

Không phạm:

Hoặc có bệnh, giữa ngày sắp qua, bị mạng nạn, phạm hạnh nạn, cần phải ăn gấp.

37. HÁ MIỆNG LỚN CHỜ CƠM ĂN.

Phật ở nước Xá Vệ, cư sĩ thiết trai cúng dường, lục quần Tỳ kheo khi thức ăn chưa đến mà há miệng ra trước. Hàng cư sĩ chê gièm: “Sa môn không biết hổ thẹn, không biết nhàm chán, khác nào heo, chó, lạc đà, bò, lừa”. Tỳ kheo cử tội, Phật nhân thế quở trách chế giới.

* Không được há miệng lớn chờ cơm ăn.

Vắt cơm chưa tới, miệng đã há lớn trước.

* Cần phải học.

Không phạm:

Hoặc khi có chứng bệnh nào đó, hoặc sắp qua nửa ngày, hoặc bị mạng nạn, phạm hạnh nạn cần ăn gấp.

38. NGẬM CƠM NÓI CHUYỆN.

Phật ở nước Xá Vệ hàng cư sĩ sắm sửa thức ăn, lục quần Tỳ kheo ngậm cơm mà nói chuyện, cư sĩ chê gièm: Sa môn ví như heo, chó, lạc đà, chim, quạ. Tỳ kheo cử tội Phật nhân thế quở trách mà chế giới.

* Không được ngậm cơm nói chuyện.

Tức cơm còn ở trong miệng, lời nói không thể rõ ràng, khiến cho người nghe không hiểu.

* Cần phải học.

Không phạm:

Hoặc lúc có bệnh, hoặc lúc bị nghẹn nên đòi nước, hoặc bị mạng nạn, phạm hạnh nạn nên lớn tiếng khi đang ăn.

39. VẮT CƠM NÉM VÀO TRONG MIỆNG.

Phật ở nước Xá Vệ, hàng cư sĩ thỉnh Tăng rồi tự tay mình xớt cơm, lục quần Tỳ kheo vắt cơm từ xa ném vào trong miệng. Cư sĩ chê gièm: “Sa môn không hổ thẹn, không nhàm chán giống như nhà ảo thuật”. Tỳ kheo cử tội, Phật nhân thế chế giới.

* Không được vắt cơm từ xa ném vào trong miệng cần phải học.

Không phạm:

Khi có bệnh, hoặc bị trói buộc phải ném thức ăn vào trong miệng thì không phạm.

40. KHI ĂN ĐỂ CƠM RƠI ĐỔ.

Phật ở nước Xá Vệ, cư sĩ sắm sửa thức ăn, lục quần Tỳ kheo nắm vắt cơm cắn phân nửa để ăn. Cư sĩ chê gièm: “Sa môn thọ dụng không biết chán đủ, khác nào heo, chó, lạc đà, lừa, bò, chim, quạ”. Tỳ kheo cử tội, Phật nhân thế quở trách chế giới.

* Ăn cơm không nên để cho rơi đổ

Đã vào miệng phân nửa, phân nửa còn ở trong tay.

* Cần phải học.

Không phạm:

Khi có bệnh, hoặc ăn bánh tráng, cơm cháy, ăn thịt, hoặc ăn dưa, mía, ăn rau, quả lê, trái nho, tim, lá nhụy.

41. DỒN CƠM HAI BÊN MÁ ĂN.

Phật ở nước Xá Vệ, hàng cư sĩ sắm sửa thức ăn cúng dường, lục quần dồn thức ăn hai bên má. Cư sĩ thấy chê gièm rằng: Sa môn không biết hổ thẹn, ăn giống như khỉ đột. Tỳ kheo cử tội, Phật nhân thế quở trách chế giới.

* Không được dồn cơm hai bên má ăn.

Tức là khiến cho hai bên má phồng lên giống hệt như con khỉ.

* Cần phải học.

Không phạm:

Khi bệnh, khi sắp qua giữa ngày, hoặc bị mạng nạn, phạm hạnh nạn cần phải ăn gấp.

42. NHAI THỨC ĂN RA TIẾNG.

Phật ở nước Xá Vệ, hàng cư sĩ cúng dường chư Tăng thức ăn, lục quần Tỳ kheo nhai thức ăn ra tiếng, hàng cư sĩ chê gièm: “Sa môn giống như heo, chó, lạc đà, bò, lừa, chim, quạ”. Tỳ kheo cử tội, Phật nhân thế quở trách chế giới.

* Không được nhai thức ăn ra tiếng cần phải học.

Không phạm:

Khi có bệnh, nhai bánh khô cho đến cơm cháy, mía, dưa, nho, hồ đào, ty đào lê, phong lê.

43. HÚP THỨC ĂN.

Phật ở nước Xá Vệ, hàng cư sĩ sắm sửa thức ăn cúng dường, lục quần Tỳ kheo húp thức ăn lớn tiếng, cư sĩ chê gièm: “Sa môn không hổ thẹn, ăn uống giống như heo, chó, lạc đà, bò, lừa, chim, quạ”. Tỳ kheo bạch Phật, nhân thế Ngài quở trách chế giới.

* Không nên húp thức ăn ra tiếng.

Há miệng lớn từ xa húp thức ăn vào.

* Cần phải học.

Không phạm:

Khi có bệnh, hoặc miệng bị đau, hoặc ăn canh, hoặc ăn (uống) sữa, lạc tương, tô Tỳ la tương, hoặc rượu đắng.

44. LE LƯỠI LIẾM THỨC ĂN.

Phật ở nước Xá Vệ, hàng cư sĩ thiết trai cúng dường, lục quần Tỳ kheo thè lưỡi liếm thức ăn. Cư sĩ chê gièm: “Sa môn không có tàm quí, ăn uống như heo, chó, lạc đà, bò, lừa, chim, quạ”. Tỳ kheo cử tội, Phật nhân thế quở trách chế giới.

* Không được le lưỡi liếm thức ăn.

Dùng lưỡi liếm thức ăn.

* Cần phải học.

Không phạm:

Khi có bệnh, hoặc bị trói buộc, hoặc tay có bùn hay đất dính dơ làm bẩn tay nên phải dùng lưỡi liếm mà ăn.

45. KHÔNG ĐƯỢC RẢY TAY KHI ĂN.

Phật ở nước Xá Vệ, hàng cư sĩ sắm thức ăn cúng dường tự tay sớt thức ăn, lục quần rảy tay ăn. Cư sĩ chê gièm, nói rằng: “Sa môn không có chánh pháp, giống như vua chúa đại thần”. Tỳ kheo cử tội Phật quở trách chế giới.

      * Không được rảy tay khi ăn cần phải học.

Không phạm:

Khi có bệnh, hoặc trong thức ăn có cỏ, có trùng, hoặc tay có vật bất tịnh muốn rảy bỏ, hoặc khi chưa nhận thức ăn mà tay đã chạm vật dơ, nên rảy tay để bỏ đi.

46. TAY NHẶT CƠM RƠI ĂN.

Phật ở nước Xá Vệ, cư sĩ thiết trai cúng dường, lục quần Tỳ kheo nhặt cơm rơi ăn, cư sĩ chê gièm rằng: “Sa môn ăn như gà, chim”. Tỳ kheo cử tội, Phật nhân thế quở trách chế giới.

* Không được tay nhặt cơm rơi ăn.

Tức cơm rơi đổ dưới đất vậy.

* Cần phải học.

Không phạm:

Khi có bệnh, hoặc trong thức ăn có cỏ trùng, hoặc có vật dơ uế bất tịnh, hoặc lúc chưa thọ thực có vật gì cần nhặt bỏ đi.

47. TAY DƠ CẦM ĐỒ ĐỰNG THỨC ĂN.

Phật ở nước Xá Vệ, cư sĩ thiết trai cúng dường, lục quần Tỳ kheo lấy tay dơ cầm đồ đựng thức ăn, cư sĩ chê gièm: “Sa môn gì mà không có phép tắc giống như vua chúa, đại thần”. Tỳ kheo cử tội, Phật nhân thế quở trách chế giới.

      * Không được tay dơ cầm bát đựng thức ăn.

Có cơm dơ dính ở tay.

* Cần phải học.

Không phạm:

Khi có bệnh, hoặc nhận thức ăn trên cỏ, nhận trên lá cây, rửa tay nhận không phạm.

48. NƯỚC RỬA BÁT ĐỔ TRONG NHÀ CƯ SĨ.

Phật ở nước Xá Vệ, lục quần Tỳ kheo đổ nước rửa bát ở trong nhà cư sĩ. Lúc đó, cơm, thức ăn văng bừa bãi. Cư sĩ chê gièm: “Sa môn nhận nhiều như kẻ đói khát”. Tỳ kheo cử tội, Phật nhân thế chế giới.

* Không được nước rửa bát.

Nước có cơm và thức ăn thừa.

* Đổ trong nhà cư sĩ cần phải học.

Không phạm:

Khi có bệnh, hoặc lúc rửa mâm, rửa bànrồi hứng lấy nước ấy đem đổ ra ngoài.

49. ĐẠI TIỂU TIỆN TRÊN CỎ TƯƠI.

Phật ở nước Xá Vệ, lục quần đại tiểu tiện, khạc nhổ trên lá cây, cỏ tươi. Hàng cư sĩ thấy vậy chê gièm: “Sa môn không biết hổ thẹn, như heo, chó, lạc đà, bò, lừa. Tỳ kheo cử tội, Phật nhân thế chế giới.

* Không được khạc nhổ, đại tiểu tiện trên rau cỏ tươi, trừ khi có bệnh.

Vì có bệnh không thể lánh đi, Phật dạy là không phạm.

* Cần phải học.

Không phạm:

Nước chảy lan đến chỗ có rau cỏ tươi, lá cây hoặc chim ngậm rớt xuống vậy.

50. KHẠC NHỔ, ĐẠI TIỂU TIỆN TRONG DÒNG NƯỚC.

Phật ở Xá Vệ, lục quần Tỳ kheo hỉ mũi, khạc nhổ, đại tiểu tiện trong dòng nước. Hàng cư sĩ chê gièm: “Sa môn như heo, chó, bò, lừa, lạc đà. Tỳ kheo cử tội, Phật nhân thế chế giới.

* Không được hỉ mũi khạc nhổ đại tiểu tiện trong dòng nước, trừ khi có bệnh cần phải học.

Không phạm:

Khi có bệnh, hoặc đại tiểu tiện trên bờ sông rồi bị rớt vào trong dòng nước, hoặc gió thổi, chim ngậm bay đi làm rơi xuống.

51. ĐỨNG ĐẠI TIỂU TIỆN.

Phật ở nước Xá Vệ, lục quần Tỳ kheo tạo ra những lỗi lầm. Cư sĩ thấy chê gièm rằng: “Sa môn này không có chánh pháp, đứng đại tiểu tiện như bò, ngựa, heo, dê, lạc đà”. Tỳ kheo cử tội, Phật nhân thế quở trách và chế giới.

* Không được đứng đại tiểu tiện, trừ khi có bệnh.

Do vì bệnh nên không thể ngồi được.

* Cần phải học.

Không phạm:

Khi có bệnh, bị trói buộc, hoặc dưới chân có vật dơ, bùn dơ…

52. NÓI PHÁP CHO NGƯỜI
KHÔNG CUNG KÍNH NGHE.

Phật ở nước Xá Vệ, lục quần Tỳ kheo nói pháp cho người lật ngược y không cung kính. Bấy giờ Tỳ kheo nghe chuyện đó, những vị thiểu dục, biết hổ thẹn cử tội, Phật nhân thế mới quở trách chế giới.

* Không được nói pháp cho người lật ngược y không cung kính, trừ khi có bệnh cần phải học.

Không phạm:

Hoặc lúc có chứng bệnh nào đó, hoặc vì nhà vua, đại thần của vua.

53. KHÔNG ĐƯỢC NÓI PHÁP CHO NGƯỜI QUẤN ÁO Ở CỔ,

TRỪ KHI CÓ BỆNH CẦN PHẢI HỌC
(như trên).

54. KHÔNG ĐƯỢC NÓI PHÁP CHO NGƯỜI PHỦ ĐẦU,

TRỪ KHI CÓ BỆNH CẦN PHẢI HỌC
(như trên).

55. KHÔNG ĐƯỢC NÓI PHÁP CHO NGƯỜI TRÙM ĐẦU,

TRỪ KHI CÓ BỆNH CẦN PHẢI HỌC
(như trên).

56. KHÔNG ĐƯỢC NÓI PHÁP CHO NGƯỜI
CHỐNG NẠNH, TRỪ KHI CÓ BỆNH CẦN PHẢI HỌC (như trên).

57. KHÔNG ĐƯỢC NÓI PHÁP CHO NGƯỜI
MANG DÉP DA, TRỪ KHI CÓ BỆNH CẦN PHẢI HỌC (như trên).

58. KHÔNG ĐƯỢC NÓI PHÁP CHO NGƯỜI MANG GUỐC GỖ,

TRỪ KHI CÓ BỆNH CẦN PHẢI HỌC
(như trên).

59. KHÔNG ĐƯỢC NÓI PHÁP CHO NGƯỜI ĐI XE,
TRỪ KHI CÓ BỆNH CẦN PHẢI HỌC
(như trên).

60. NGỦ NGHỈ TRONG THÁP PHẬT.

Phật ở nước Xá Vệ, lục quần ngủ trong tháp Phật, (các Tỳ kheo thấy trong đó) có vị biết hổ thẹn, Tỳ kheo cử tội và bạch Phật, nhân thế Ngài quở trách chế giới.

* Không được ngủ nghỉ trong tháp Phật, trừ vì giữ gìn cần phải học.

Không phạm:

Hoặc có bệnh, hoặc ngủ nghỉ vì để giữ gìn, hoặc bị sức mạnh bắt, hoặc bị mạng nạn, phạm hạnh nạn nên phải ngủ nghỉ.

61. CẤT CHỨA CỦA CẢI TRONG THÁP PHẬT.

Phật ở nước Xá Vệ, lục quần Tỳ kheo cất những tài vật ở trong tháp Phật. Tỳ kheo thiểu dục đem lỗi này bạch Phật, nhân thế Ngài quở trách chế giới.

* Không được cất chứa tài vật để trong tháp Phật, trừ vì cớ bền chắc, cần phải học.

Không phạm:

Hoặc có bệnh, hoặc vì muốn cho bền chắc nên để trong tháp Phật, hoặc bị cường lực bắt buộc, bị mạng nạn, phạm hạnh nạn.

62. MANG DÉP DA VÀO TRONG THÁP PHẬT.

Phật ở nước Xá Vệ, lục quần Tỳ kheo mang dép da vào trong tháp Phật. Có Tỳ kheo hổ thẹn đem lỗi này bạch Phật, nhân thế Ngài quở trách chế giới.

* Không được mang dép da vào trong tháp Phật cần phải học.

Không phạm:

Hoặc bị căn bệnh nào đó, hoặc bị sức mạnh bắt bảo vào trong tháp Phật.

63. KHÔNG ĐƯỢC TAY CẦM DÉP DA
VÀO TRONG THÁP CẦN PHẢI HỌC
(như trên).

64. KHÔNG ĐƯỢC MANG DÉP DA ĐI NHIỄU
QUANH THÁP CẦN PHẢI HỌC
(như trên).

65. KHÔNG ĐƯỢC MANG GIÀY PHÚ LA VÀO
TRONG THÁP PHẬT CẦN PHẢI HỌC
(như trên).

66. KHÔNG ĐƯỢC TAY CẦM GIÀY PHÚ LA VÀO

TRONG THÁP PHẬT CẦN PHẢI HỌC
(như trên).

67. Ở DƯỚI THÁP ĂN UỐNG LÀM DƠ ĐẤT.

Phật ở nước Xá Vệ, lục quần Tỳ kheo ngồi dưới tháp ăn xong để lại thức ăn và cỏ rác làm dơ đất rồi bỏ đi. Tỳ kheo đem lỗi này bạch Phật, nhân thế Ngài dạy không được ngồi ăn dưới tháp. Hoặc khi làm tháp làm phòng, thí ao giếng, thí thực, chúng Tăng nhóm họp đây mà chỗ ngồi lại chật chội thì Phật cho ngồi ăn ở dưới tháp nhưng không được làm dơ đất.

* Không được ngồi ăn dưới tháp để cỏ và thức ăn làm dơ đất cần phải học.

Không phạm:

Ngồi ăn một lần và Tỳ kheo không làm phép dư thực, Tỳ kheo có bệnh cho phép dồn lại một bên chỗ chân rồi lúc ra ngoài cầm theo đem bỏ.

68. KHIÊNG THÂY CHẾT ĐI QUA DƯỚI THÁP PHẬT.

Phật ở nước Xá Vệ, lục quần khiêng thây chết từ dưới tháp đi qua, làm các vị thần giữ tháp nóng giận. Người ưa học giới đem chuyện này bạch Phật, nhân thế Ngài quở trách và chế giới.

* Không được khiêng thây chết từ dưới tháp đi ngang qua cần phải học.

Không phạm:

Hoặc có bệnh, hoặc khi cần đi qua đường ấy, hoặc bị sức mạnh bảo đi.

69. KHÔNG ĐƯỢC CHÔN THÂY CHẾT DƯỚI THÁP

CẦN PHẢI HỌC (như trên).

70. KHÔNG ĐƯỢC ĐỐT THÂY CHẾT Ở DƯỚI THÁP

CẦN PHẢI HỌC (như trên).

71. KHÔNG ĐƯỢC Ở TRƯỚC THÁP ĐỐT THÂY CHẾT CẦN PHẢI HỌC (như trên).

72. KHÔNG ĐƯỢC Ở BỐN PHÍA THÁP PHẬT ĐỐT THÂY

CHẾT KHIẾN HƠI HÔI BAY VÀO CẦN PHẢI HỌC (như trên).

73. ĐEM ÁO GIƯỜNG CỦA NGƯỜI CHẾT
ĐI QUA DƯỚI THÁP.

Phật ở nước Xá Vệ, lục quần Tỳ kheo mang áo và giường người chết đi ngang qua dưới tháp, làm cho vị thần ở nơi đó nóng giận, Tỳ kheo tu hạnh Đầu Đà đem lỗi này bạch Phật, nhân thế Ngài quở trách chế giới.

* Không được mang áo và giường người chết đi ngang qua dưới tháp, trừ khi giặt nhuộm xông hương cần phải học.

Không phạm:

Hoặc khi có căn bệnh nào đó, hoặc y phấn tảo của Tỳ kheo, hoặc khi đã giặt nhuộm xong mới mang vào.

74. KHÔNG ĐƯỢC ĐẠI TIỂN TIỆN DƯỚI THÁP PHẬT

CẦN PHẢI HỌC (như trên).

75. KHÔNG ĐƯỢC ĐẠI TIỂU TIỆN TRƯỚC THÁP PHẬT

CẦN PHẢI HỌC (như trên).

76. KHÔNG ĐƯỢC QUANH BỐN PHÍA THÁP PHẬT

ĐẠI TIỂU TIỆN KHIẾN HƠI HÔI BAY VÀO CẦN PHẢI HỌC (như trên).

77. KHÔNG ĐƯỢC MANG TƯỢNG PHẬT ĐẾN CHỖ ĐẠI TIỂU TIỆN,

CẦN PHẢI HỌC (như trên).

Có ba trường hợp không phạm: Hoặc khi có bệnh thế nào đó, hoặc do trên đường đi, hoặc bị sức mạnh bắt đi thì đều không phạm.

78. KHÔNG ĐƯỢC Ở DƯỚI THÁP PHẬT NHĂN
CÀNH DƯƠNG CẦN PHẢI HỌC
(như trên).

79. KHÔNG ĐƯỢC Ở TRƯỚC THÁP PHẬT NHĂN

CÀNH DƯƠNG CẦN PHẢI HỌC (như trên).

80. KHÔNG ĐƯỢC BỐN PHÍA THÁP PHẬT NHĂN

CÀNH DƯƠNG CẦN PHẢI HỌC (như trên).

81. KHÔNG ĐƯỢC Ở DƯỚI THÁP PHẬT HỈ NHỔ
CẦN PHẢI HỌC (như trên).

82. KHÔNG ĐƯỢC TRƯỚC THÁP PHẬT HỈ NHỔ
CẦN PHẢI HỌC (như trên).

83. BỐN BÊN THÁP PHẬT HỈ NHỔ.

Phật ở nước Xá Vệ, lục quần Tỳ kheo hỉ nhổ bốn phía tháp Phật. Tỳ kheo cử tội, Phật nhân thế quở trách chế giới.

* Không được hỉ nhổ bốn phía tháp Phật cần phải học.

Không phạm:

Khi có bệnh, hoặc khi bị chim ngậm, hoặc bị gió thổi đến.

84. DUỖI CHÂN TRƯỚC THÁP.

Phật ở nước Xá Vệ, lục quần Tỳ kheo ngồi duỗi chân trước tháp. Hàng Tỳ kheo ưa học giới, đem lỗi này bạch Phật, nhân thế Ngài quở trách chế giới.

* Không được ngồi duỗi chân trước tháp cần phải học.

Không phạm:

Hoặc có bệnh, hoặc ở giữa có khoảng cách, hoặc bị cường lực bắt.

85. ĐỂ TƯỢNG PHẬT Ở TẦNG DƯỚI.

Phật ở nước Xá Vệ, lục quần để tượng Phật ở phòng dưới, còn mình thì ở phòng trên. Tỳ kheo tu hạnh Đầu Đà đem lỗi này bạch Phật, nhân thế Ngài quở trách chế giới.

* Không được để tượng Phật ở phòng dưới, mình ở phòng trên cần phải học.

Không phạm:

Hoặc mắc phải căn bệnh nào đó, mình thỉnh tượng Phật để ở phòng dưới mình ở phòng trên, hoặc bị mạng nạn, phạm hạnh nạn.

86. KHÔNG ĐƯỢC NÓI PHÁP CHO NGƯỜI NGỒI MÌNH ĐỨNG,

TRỪ KHI CÓ BỆNH CẦN PHẢI HỌC (như trên).

87. KHÔNG ĐƯỢC NÓI PHÁP CHO NGƯỜI NẰM MÌNH NGỒI,

TRỪ KHI CÓ BỆNH CẦN PHẢI HỌC (như trên).

88. KHÔNG ĐƯỢC NÓI PHÁP CHO NGƯỜI NGỒI Ở TẠI TÒA,

CÒN MÌNH NGỒI Ở PHI TÒA,

TRỪ KHI CÓ BỆNH CẦN PHẢI HỌC (như trên).

89. KHÔNG ĐƯỢC NÓI PHÁP CHO NGƯỜI NGỒI CHỖ CAO MÌNH

NGỒI CHỖ THẤP, TRỪ KHI CÓ BỆNH CẦN PHẢI HỌC (như trên).

90. KHÔNG ĐƯỢC NÓI PHÁP CHO NGƯỜI ĐI Ở

TRƯỚC MÌNH ĐI Ở SAU,

TRỪ KHI CÓ BỆNH CẦN PHẢI HỌC (như trên).

91. KHÔNG ĐƯỢC NÓI PHÁP CHO NGƯỜI ĐI KINH HÀNH

Ở CHỖ CAO, MÌNH ĐI KINH HÀNH Ở CHỖ THẤP,

TRỪ KHI CÓ BỆNH CẦN PHẢI HỌC (như trên).

92. KHÔNG ĐƯỢC NÓI PHÁP CHO NGƯỜI
Ở GIỮA ĐƯỜNG, CÒN MÌNH Ở BÊN ĐƯỜNG,
TRỪ KHI CÓ BỆNH CẦN PHẢI HỌC (như trên).

93. KHÔNG ĐƯỢC NẮM TAY NHAU KHI ĐI ĐƯỜNG.

Phật ở nước Xá Vệ, lục quần nắm tay nhau đi ở ngoài đường, hoặc chặn những nam nữ khác. Cư sĩ chê gièm rằng: Sa môn không có chánh pháp khác nào vua chúa đại thần, hào quý trưởng giả. Tỳ kheo cử tội, nhân thế Phật chế giới.

* Không được nắm tay nhau khi đi đường cần phải học.

Không phạm:

Hoặc lúc có bệnh, hoặc Tỳ kheo mắt bị mờ nên cần người dìu đi.

94. Ở TRÊN CÂY CAO QUÁ ĐẦU NGƯỜI.

Phật ở nước Xá Vệ, Tỳ kheo nhập hạ an cư ở trên một đại thọ và ông ở trên cây đó đại tiểu tiện xuống, khiến cho vị thọ thần nóng giận định đoạn mạng căn của thầy ấy, các Tỳ kheo đem lỗi này bạch Phật, nhân thế Ngài cấm Tỳ kheo không được an cư ở trên cây và đại tiểu tiện xung quanh cây. Nếu trước đó đã có chỗ đại tiểu tiện thì được.

* Không được leo lên cây cao quá đầu người, trừ khi có nhân duyên cần phải học.

Không phạm:

Hoặc có bệnh, hoặc bị cường lực ép buộc, hoặc bị trói, hoặc bị mạng nạn, phạm hạnh nạn, thì được leo lên cây cao quá đầu người.

95. TÚI ĐÃI MÁNG TRÊN ĐẦU GẬY QUẢY ĐI.

Phật ở nước Xá Vệ, Bạt Nan Đà để bát vào trong đãi rồi xâu trên đầu gậy vác trên vai đi. Cư sĩ ngỡ là quan nhơn nên đều lánh qua bên lề đường. Tỳ kheo cử tội, Phật nhân thế quở trách và chế giới.

* Không được để bát vào đãi xâu vào đầu gậy vác trên vai mà đi cần phải học.

Không phạm:

Hoặc khi có bệnh, hoặc bị cường lực ép buộc, hoặc bị trói, hoặc bị mạng nạn, phạm hạnh nạn.

96. NÓI PHÁP CHO NGƯỜI CẦM GẬY
KHÔNG CUNG KÍNH.

Phật ở nước Xá Vệ, lục quần Tỳ kheo thuyết pháp cho người không có lòng cung kính. Các Tỳ kheo cử tội, Phật nhân thế quở trách và chế giới.

* Không được nói pháp cho người cầm gậy không cung kính, trừ khi có bệnh cần phải học.

Không phạm:

Hoặc lúc có bệnh, hoặc vì vua và đại thần.

97. KHÔNG ĐƯỢC NÓI PHÁP CHO NGƯỜI CẦM KIẾM,

TRỪ KHI CÓ BỆNH CẦN PHẢI HỌC (như trên).

98. KHÔNG ĐƯỢC NÓI PHÁP CHO NGƯỜI CẦM MÂU,

TRỪ KHI CÓ BỆNH CẦN PHẢI HỌC (như trên).

99. KHÔNG ĐƯỢC NÓI PHÁP CHO NGƯỜI CẦM DAO,

TRỪ KHI CÓ BỆNH CẦN PHẢI HỌC (như trên).

100. KHÔNG ĐƯỢC NÓI PHÁP CHO NGƯỜI CẦM DÙ CHE,

TRỪ KHI CÓ BỆNH CẦN PHẢI HỌC (như trên).

* Chư Đại Đức, tôi đã nói pháp chúng học. Bây giờ xin hỏi Chư Đại Đức trong đây có thanh tịnh không? (Nói ba lần). Chư Đại Đức trong đây thanh tịnh vì im lặng, việc này xin ghi nhận như vậy.

-——————————————————

 

10.Bộ hàm chú về Giới Bổn Luật tứ phần
390111
Total Visit : 288423