Để nói lên tinh thần tri ân báo ân của người con Phật, cảm niệm ân đức sâu dày khai sơn tạo tự, hoằng pháp sinh lợi của vị tiền bối tổ sư.
Hằng năm vào ngày mùng 2,3 tháng 03 Âm lịch (tức là ngày 10,11/04/2024), bổn tự thành kính tưởng niệm Lễ húy nhật Tổ Sư thượng Liễu hạ Ngọc tự Phổ Minh hiệu Minh Ngọc Châu Hoàn – nguyên khai sơn Tổ Đình Chùa Hội Phước đồng Nha Mân – Đồng Tháp, thời gian Hiệp kỵ Linh Linh Chư tôn Hòa siêu trong môn phong. Sau đây là hình ảnh Lễ húy kỵ:
◊◊———————————————— —◊◊
Tháng 7 là thời gian mà rất nhiều những thi ca, rất nhiều những thơ văn nói lên tình thương của cha mẹ đối với con cái. Trong Phật giáo tháng 7 là thời gian Tự Tứ của chư tăng và cũng là mốc thời gian mà ngày xưa Tôn giả Maudgalyāyana Sthavira, Mahāmaudgalyāyana, Moggallāna Thera, Mahāmoggallāna, 目犍連 Mục Kiền Liên sau khi tu chứng đạo quả Ngài chạnh lòng nhớ đến ân đức của mẹ và muốn tìm để xem mẹ mình ở đâu. Khi Ngài thấy bà bị đọa trong cái cảnh giới đau khổ nơi địa ngục với lòng hiếu kính muốn cứu mẹ nhưng bất lực. Một mình không thể làm công việc đó cho nên Ngài trở về bạch với Phật và Đức Phật dạy “Nhơn thời gian chư tăng Tự Tứ kết thúc 3 tháng hạ, thầy hãy đảnh lễ chư tăng và thỉnh các thầy gia tâm chú nguyện, sớt bát vì mẹ mà cúng dường”. Nhờ lòng hiếu của Tôn giả Mục Liên, nhờ đạo lực thanh tịnh của chư tăng, năng lượng đó tác động đến bà Thanh Đề và giúp cho bà chợt tỉnh ra, thấy rõ những nguyên nhơn mà lúc còn sanh tiền của bà đã gây quá nhiều những khổ đau từ tâm bỏn xẻn, tham lam cho đến những hành động xúc phạm đến những bậc tu hành. Đó là những nguyên nhơn mà đưa bà đến khổ đau. Nhờ lòng hiếu của Tôn giả Mục Liên vì mẹ mà cúng dường, tu tập, chư tăng cũng vì thương ngài Mục Liên cho nên thọ nhận những lễ phẩm và hồi hướng đến bà, đem tâm nguyện tu tập của mình để nghĩ đến bà. Chính những đạo lực tác động làm cho bà thay đổi suy nghĩ, việc làm và lời nói. Đông lực chuyển hoá đó giúp cho bà được giải thoát cảnh giới đau khổ và được sanh về cảnh giới an lành của chư thiên.
Đã hơn 2000 năm, gương hiếu của Tôn giả Mục Kiền Liên vẫn là một hình ảnh đẹp trong lòng người con Phật. Mỗi khi Vu Lan về, không ai gọi ai, mọi người đều lắng lòng thanh tịnh, cùng nhau tu tập để dâng tặng những phước báu, công đức mà mình chế tác ra trong những thời gian tu tập có được dâng lên để cúng dường cha mẹ.
Người còn tại thế:
Thân tâm yên ổn,
Phát nguyện tu trì.
Kẻ đã qua đời:
Ác đạo xa lìa,
Chóng thành Phật quả.
Đó là một nét đẹp của Phật giáo. Nét đẹp của người con Phật và cũng chính là nét đẹp nhơn văn của dân tộc Việt Nam của những trái tim những người con biết hiếu thảo khắp năm châu trên thế giới. Hôm nay, chúng ta sẽ nói chuyên đề về đề tài đó.
盂蘭 Vu Lan nói cho đủ là 盂蘭盆 Vu Lan Bồn. Đấy là chúng ta phiên âm từ cái chữ là Ullambana 烏藍婆拏 Ô-lam-bà-noa, mình phiên âm là 盂蘭盆 Vu Lan Bồn. Câu này có nghĩa là 解倒懸 giải đảo huyền hay là 救倒懸 cứu đảo huyền. Chữ 懸 huyền là treo, cái gì treo lên rồi là 懸 huyền mà 倒 đảo là ngược. Những cảnh khổ đau, khó chịu bị đâm, bị chặt, bị chém, bị nướng, bị cắt mổ ở địa ngục mà chúng sanh tạo nghiệp xấu phải chịu lấy những hậu quả mà họ đã gây tạo cho người khác. Cảnh khổ đau đó rất khó khó chịu giống như nỗi khổ mà bị treo ngược dọng đầu xuống đất được kéo chân lên. Sự khổ đau ở địa ngục khó chịu giống như nỗi khổ của những người bị treo ngược. 解倒 giải đảo chữ 解 giải là mở ra, chữ 救 cứu là vớt là giúp. Vậy chữ Vu Lan có nghĩa là nhờ đạo lực thanh tịnh của chư tăng, của những người tu hành cộng với lòng hiếu thảo của con cháu. Năng lực đó tác động đến họ giúp cho người bị khổ đau chợt tỉnh ra. Họ quy hướng về Tam Bảo, phát tâm học tập và làm theo những việc làm hiếu kính, thảo thuận, bố thí, cúng dường giúp cho họ tháo gỡ được những tư duy cục bộ, những lời nói, những việc làm mà để lại hậu quả khiến cho họ phải bị đắm chìm trong cảnh giới đau khổ. Đạo lực đó giúp cho họ hóa giải, mở được cho nên gọi đó là 解倒懸 giải đảo huyền hay là 救倒懸 cứu đảo huyền chứ không phải nói 盆 bồn là cái chậu như chúng ta cắt nghĩa. Mặc dù là các thầy thọ thực hay có những cái bình bát nhưng 盂蘭盆 Vu Lan Bồn không phải 盆 bồn là chậu. 盂蘭盆 Vu Lan Bồn phiên âm từ cái chữ là Ullambana 烏藍婆拏 Ô-lam-bà-noa nghĩa là tháo gỡ những cái khổ cái khổ đau dằn vặt ray rứt. Người ta khó chịu giống như cái khổ bị treo ngược những cái khổ đau đó buông mở ra thoát khỏi ra.
Trong 報恩品第二 Báo Ân Phẩm đệ nhị Phẩm 2 Báo ân, 大乘本生心地觀經 Kinh Đại Thừa Bổn Sanh Tâm Địa Quán, 大唐罽賓國三藏般若奉詔譯 Đại Đường Kế Tân Quốc Tam Tạng Ban Nhược phụng chiếu dịch, đức Phật có nói là con người luôn luôn phải ghi nhớ đến bốn ân 世出世恩有其四種:一父母恩,二眾生恩,三國王恩,四三寶恩。如是四恩,一切眾生平等荷負。Thế xuất thế ân hữu kì tứ chủng nhất phụ mẫu ân, nhị chúng sanh ân, tam quốc vương ân, tứ Tam Bảo ân. Như thị tứ ân nhất thiết chúng sanh bình đẳng hà phụ.
Ân của thế gian và xuất thế gian có bốn bậc: Một là ân cha mẹ. Hai là ân chúng sanh. Ba là ân quốc vương. Bốn là ân Tam Bảo. Bốn ơn như thế, hết thảy chúng sanh đều bình đẳng gánh chịu.
Cha mẹ sanh thành dưỡng dục. Ân đó cao như trời vói không tới, sâu như bể nhưng mò không chạm. Dù chúng ta có phụng dưỡng, có chăm sóc như thế nào đi nữa vẫn dừng lại ở vật chất. Người Phật tử phải làm sao cho tinh thần cha mẹ lúc nào cũng an vui. Dù chúng ta có dâng cơm ăn áo mặc cho đầy đủ đi nữa, cha mẹ vẫn còn nỗi khổ sanh già bệnh chết, vẫn còn nỗi khổ của tâm thức. Nhiều khi bị phiền não, bị giận hờn, lo lắng đưa đến khổ đau. Cho nên, không gì hơn là phải giúp cho cha mẹ biết tu tập, biết nương tựa Tam Bảo, hướng thiện. Nhờ công đức của sự tu tập đó, mà cha mẹ mới có thể tháo gỡ được những phiền muộn, lo toan, bất an trong tinh thần. Vì vậy, ơn thứ nhất người Phật tử luôn luôn phải ghi nhớ là ân cha mẹ.
Thứ hai là ân chúng sanh tức là xã hội. Chúng ta có được đời sống như thế này chúng ta phải mang ân những sự đóng góp của mọi tầng lớp của mọi ban ngành trong xã hội. Nhờ có người thợ dệt cặm cụi từng sợi chỉ, nhờ có người thợ nhuộm nghiên cứu tìm ra một công thức, nhờ có người thợ may cho dù là may công nghiệp theo xã hội ngày nay vẫn là công sức đầu tư từ chất xám của họ. Do đó, chúng ta mới có được chiếc áo, có được phục sức trang nghiêm. Vì thế, chúng ta mặc chiếc áo phải nhớ người thợ dệt. 身披一 縷,常思織女之勞。Thân phi nhất lũ, thường tư chức nữ chi lao. Thân mình mặc một chiếc áo cho dù nó là áo gì, chúng ta phải nhớ ơn. Các thầy khoác mặc cà sa cũng phải nhớ ơn người thí chủ. Chúng ta phải nhớ ơn cha mẹ cực khổ làm lụng có tiền mua sắm quần áo cho con cái. Mặc dù là ta phải bỏ tiền mua nhưng đó thật sự là sự trao đổi rồi.
Ân người nông phu dãi nắng dầm mưa, trồng trọt, cày cấy gặt hái rồi ơn những người nấu ra nồi cơm, bữa ăn đó nữa. Cho dù nhà giàu có những người phục dịch nấu nướng nhưng phải biết ân. Do đó, 日食三餐,每念農夫之苦。Nhật thực tam xan, mỗi niệm nông phu chi khổ. Chúng ta bưng bát cơm, chúng ta phải thấy mồ hôi đổ trên ruộng lúa nhiều hơn hạt gạo, hạt cơm mà chúng ta đang có. Công sức như vậy nên phải biết ơn họ. Vì vậy, mỗi lần ăn cơm chúng ta chắp tay vái, xá không phải là một nghi lễ của tôn giáo hay là một hình thức gì cả mà nó chỉ là sự biết ơn. Điều này chúng ta cũng nên truyền bá đến con cháu chúng ta. Mà đó là văn hóa của người Việt Nam cho dù là chúng ta chắp tay hay là mời hay là bày tỏ. Do đó, ăn cơm trân quý từng hạt khóc, hạt gạo không để rơi đổ không phải nói là sợ nhơn quả ăn cơm rơi đổ rồi lại phải làm gà làm vịt mổ lại. Không phải dừng vậy thôi. Đó là giáo dục trân quý những phước báo mình có được, không có tiêu phí và bày tỏ sự biết ơn. Ăn cơm phải vét cho sạch cái bát đừng để thừa.
Lúc nhỏ chúng tôi học hòa thượng có dạy là ngày xưa chú tiểu được thầy giao cho đem y cà sa ra ngoài ao giặt mà để y cà sa xuống nó nổi phều lên mặt nước không tài nào giặt được. Chú lấy đá dằn nó cũng nổi. Chú bạch mới thầy con không giặt y được. Tại sao y cứ nổi lên trên mặt nước không thể nào giặt được. hòa thượng nói con xuống bếp lấy bốn hạt gạo con dằn bốn góc. Quả nhiên dằn 4 hạt gạo, y cà sa chìm xuống. 一米重如山。Nhứt mễ trọng như sơn. Một hạt gạo, một hạt thóc nặng như núi là nói ân đức, công lao nặng lắm. Cho nên nhà chùa có cái câu 今生不了道,披毛戴角還。Kim sanh bất liễu đạo, phi mao đới giác hoàn. Đời nay tu hành mà không nghiêm cẩn tinh chuyên, giữ giới, thoát ly sanh tử thì coi chừng 披毛戴角 phi mao mang lông 戴角 đái giác đội sừng làm những con vật giữ nhà, kéo xe, kéo cày để trả lại cái nợ mà chúng ta đã nhận của người ta. Chúng ta luôn luôn phải sợ hãi như vậy. Chính lúc chúng ta sợ tội, phước mới sanh. Giây phút mà tội sanh là vì chúng ta chúng ta coi thường vấn đề. Chúng ta nghĩ đó là việc bình thường nhưng thật ra rất là cẩn thận.
Vì vậy, ơn chúng sanh từ cây bút mực, từ trang giấy học trò, từng cái bàn, từng cái ghế, từng cái đồng hồ. Mỗi phương tiện tất cả đều có ân với nhau, đều thọ dụng từ công sức của người khác. Vì thế chúng ta phải biết ơn. Đi trên đường bằng phẳng như vậy cũng phải biết ơn những người làm giao thông, đường xá. Cái gì cũng phải biết ơn. Nhỡ vấp một cục đá nhỏ, đừng khó chịu mắng chửi. Tại mình đi thiếu chánh niệm, thiếu ý thức chứ không ai muốn như vậy cả.
Tất cả mọi thứ từ một ly nước sạch, có một bầu không khí trong lành để thở, có một cái tàng cây che mát, chúng ta phải nhớ ơn. Cho nên Đức Phật nói là tất cả chúng sanh đều có ơn lẫn nhau. Sống mà biết ơn đó mới là cách sống đẹp và có ý nghĩa. Do đó, người Việt Nam chúng ta bao giờ cũng đi kèm theo câu nói dạ cảm ơn, hay là dạ thưa. Chúng ta gọi dạ bảo thưa, trình thưa cái gì đều có từ dạ thưa. Dạ thưa bà, thưa anh, dạ cảm ơn. Đó là điều giới trẻ ngày nay nhiều khi các bạn quên, chúng ta cần phải giữ lại nét văn hóa đẹp của dân tộc. Đó là cái đẹp là nét đẹp nói lên sự biết ơn dù chỉ cần là muốn người ta xác định lại một vấn đề nhỏ thôi. Nhưng mình phải biết ơn huống hồ là mình thọ dùng. Cho dù là mình bỏ tiền ra phải cảm ơn từ điện, từ nước. Tất cả mọi thứ chúng ta phải biết ơn.
Thứ ba là ân quốc vương. Ngày xưa còn chế độ quân chủ thì có vua thì ngày nay không còn vua nhưng có vị lãnh tụ, có vị chủ tịch nước, có vị tổng thống. Những người lãnh đạo đất nước chúng ta phải biết ơn họ. Biết ơn cả những người chiến sĩ giữ biên cương, bờ cõi để bảo vệ lãnh thổ của quê hương của chúng ta. Nhờ đó mà chúng ta được bình yên. Chúng ta phải biết ơn đừng vì một lý do cá nhơn gì đó mà khó chịu, có những lời nói thái độ tổn âm đức của mình. Người tu luôn luôn phải cẩn ngôn, cẩn ý. Một việc làm, lời nói, hành động, đừng bao giờ để tổn âm đức. Mình nói một lời nói mà để người ta đau khổ là tổn âm đức. Người xưa có nói “Có đức mới mặc sức mà ăn”. Đừng ỷ chúng ta có tài. Có tài mà không có đức thì coi chừng. “Chữ tài liền với chữ tai một vần.” Trong truyện Kiều, cụ Nguyễn Du đã dạy như vậy. Cho nên phải có đức và đừng làm một việc gì để tổn âm đức. Đối với các vị lãnh đạo, chúng ta luôn luôn phải biết ơn. Nhờ các vị gìn giữ sắp đặt làm cho xã hội được ổn định, trật tự. Nhờ đấy mà chúng ta có được cuộc sống yên ổn.
Và thứ tư là ân Tam Bảo. Nhờ có Chư Phật ra đời chỉ cho chúng ta con đường sáng, một phương pháp tu tập. Nhờ có giáo pháp của Đức Phật để lại nơi thế gian mà chúng ta biết đâu là đường tà để tránh, biết đâu là đường chánh để tu. Nhờ có những người xuất gia trì giới, sống phạm hạnh, đạo đức viên mãn, những đoàn thể tu học thanh tịnh. Đó là người thầy, người bạn để chăm sóc để hướng dẫn. Cho nên ta phải biết ơn Tam Bảo. Đức Phật ra đời như thái dương xuất hiện giúp cho chúng ta nhận diện rõ con đường nào đưa đến an vui, hạnh phúc. Nhờ thực tập theo lời Phật dạy mà chúng ta tìm thấy được chơn hạnh phúc cho nên biết ơn Tam Bảo. Tụng kinh, lạy Phật, ăn chay là vì chúng ta muốn thương yêu mình, muốn chăm sóc bản thân mình. Do đó, mình nguyện khép mình vào trong những phạm trù đạo đức chứ không ai bắt buộc ta hết. Chính những phạm trù đó đã làm nên Đức Phật khiến cho các Ngài được an vui giải thoát và Ngài dạy lại cho chúng ta. Chúng ta vì muốn giống Ngài mà chúng ta nguyện thực tập. Thờ Phật, lạy phật, cúng dường Phật hay thờ tổ tiên ông bà chúng ta cũng là bày tỏ lòng biết ơn. Chúng ta mượn lễ phẩm để nói lên tấm lòng thơm thảo của mình.
Khi nói về ân đức của cha mẹ, mỗi lần đọc kinh, sám Vu Lan nước mắt hai hàng, thấm áo xiêm, chạnh lòng, mỗi lần đọc đến đó là tự nhiên bị xúc động.
Cậy có công cha,
Chẳng quản yếu già,
Sanh nhai lam lũ.
Quyết cùng hoàn vũ,
Phấn đấu nuôi con,
Giáo dục vuông tròn,
Ðem đường học đạo.
Ðệ tử ơn sâu chưa báo,
Hổ phận kém hèn,
Giờ này quỳ trước đài sen,
Chí thành cung kính…
Tôi nghĩ chắc ai cũng có mẹ cha hết. Những lời kinh làm cho hạt giống hiếu kính ở trong ta trỗi dậy. Chính hạt giống hiếu kính làm tiền đề để ta biết rằng ta phải nói năng, làm việc, suy nghĩ như thế nào thì ta mới có hạnh phúc. Những hạnh phúc là vì ta còn mẹ cha. Hạnh phúc là ta nghĩ đến mẹ cha ta. Người ta có thể giữ lại màu sắc bằng thuốc nhuộm nhưng một khi chúng ta cài lên áo đoá hoa màu trắng rồi thì không thể nào có màu sắc nào thay đổi. Người đó đã mất cha mất mẹ rồi.
Đó là một việc làm mang tính nhơn văn nhắc nhở đến hạnh phúc đến điều kiện hạnh phúc đang có mặt với ta. Cho nên ta trân quý, đừng để mất đi rồi mới ân hận, nuối tiếc. Nhiều khi sống chung, ở cùng với cha mẹ trong gia đình mà chúng ta không có những cử chỉ, lời nói làm cho cha mẹ mỉm cười. Phải đợi đến cha mẹ mất rồi bất chợt một ký ức, một kỷ niệm ùa về, một bài hát ngân lên hay là một hình ảnh thoáng qua, chúng ta mới hối hận. Vì thế, hãy sống sâu sắc, đúng nghĩa là một người con Phật.
Mẹ hay má hay mợ, người Trung Hoa gọi mẹ là 妈妈 māmā, văn cổ gọi là 母親 mǔqīn, búchhin, mẫu thân. Người phương Tây gọi mẹ là mother, mum, mom, mamma, mammy, mère. Sao nó lạ là cùng ở phụ âm, âm môi m là âm mà chỉ cần mở môi là có thể phát âm được (như “m” hay “b”) – bởi vậy âm này rất dễ được trẻ con “bập bẹ” nói trong những năm tháng đầu đời. Mặc dù Việt Nam chúng ta cũng có rất nhiều từ hay để gọi mẹ như bu, bầm, u, mạ, má, mệ nhưng mẹ là một từ thân thương lắm. Tiếng nói, âm thanh đầu tiên của người con, của đứa bé lọt lòng đầu tiên nó bật lên là mẹ. Cho nên vai trò của người mẹ không chỉ là mẹ mà mẹ có khi đóng vai một người bạn, một người đầu bếp giỏi, một bác sĩ giỏi, một nhà tâm lý học, hay là một nhà quản lý tài giỏi. Nhiều khi mẹ phải làm bạn với con, lắng nghe con chia sẻ, con mới thỏ thẻ. Mẹ phải hạ vị trí của mình xuống để hiểu con và đồng hành với con còn ngồi ở trên mà sai biểu là con né tránh hết. Thế hệ của cha mẹ cách con hơn 20 năm. Để gần gũi, quan tâm, chăm sóc, người mẹ thấy con đang ngồi chơi là lại gần nói chuyện giống như một người bạn vậy. Bởi thế nên nhiều khi người mẹ đóng vai trò còn là một người bạn của con.
Mẹ là một người đầu bếp biết con thích ăn món đó nên không ngại gian lao, không từ cực khổ, thức khuya, dậy sớm chăm sóc từng miếng ăn cho con. Mẹ còn là một bác sĩ giỏi. Con cái nửa đêm nóng hay có gì đó bất thường là người mẹ tự nhiên biết cách làm sao cho nó thoát khỏi tình trạng bất ổn vì luôn luôn lắng nghe, quan sát con. Hôm nay nó thở khò khè, đàm, phân, nước tiểu thế nào. Mẹ hiểu được hơi thở của con như thế nào và biết con đang bị nóng, bị sốt, bị lạnh, bị cảm thế nào. Còn đợi đến lúc con bệnh trở nặng phải đưa đến nhà thương nhập viện là chuyện đó hơi bị trễ rồi. Khi nhỏ, tôi khổ nhất là lúc mà má tôi rơ miệng bằng chanh với muối. Có miếng vải chấm chấm bắt rơ vào trong miệng khó chịu lắm, la lên, nhiều khi cắn cái tay của má mình nữa. Đó là cách làm của một người phụ nữ Nam Bộ mộc mạc đơn giản. Nếu như bây giờ, nhiều người họ nói không có vệ sinh nhưng mà vệ sinh hay không thì không biết nhưng mà mỗi lần rơ miệng như vậy miệng sạch. Bây giờ nghĩ đến đó tự nhiên cảm thấy hạnh phúc biết đâu nhờ có rơ miệng đó mà bây giờ có được cái giọng tụng kinh không bị đàm, không bị gì đó. Mẹ là người quản lý tiền bạc. Mẹ biết sắp đặt biết làm thế nào để có tiền cho con đóng học phí, để sắm cho con món đồ từ này cái kia để không thua với bè bạn. Cho nên ân đức của mẹ là như vậy.
Người Việt Nam ở miền Trung có câu nói: “Con vào dạ, mạ đi tu”. Ở Huế, Quảng Bình người ta gọi mẹ là mạ. Con vào dạ, mạ đi tu tức là khi mẹ mình mà cấn thai là bắt đầu phải giữ ý, giữ tứ. Chính vì thương con, muốn chuyển hóa con cho nên đi, đứng, ngồi, nằm, nói năng, suy nghĩ, hành động tư tưởng đoan chánh.
Trong 婦行第二十篇 Phụ hạnh đệ nhị thập thiên chương 20 Phụ Hạnh, 明心寶鑒 Minh Tâm Bảo Giám có viết: 列女傳曰(西漢劉向撰): “古者婦人妊子,寢不側,坐不偏,立不躍,不食邪味,割不正不食,席不正不坐。目不視邪色,耳不聽淫聲,夜則令瞽誦詩,道正事。如此則生子形容端正,才智過人矣。Liệt nữ Truyện (Tây Hán Lưu Hướng soạn) viết: “Cổ giả phụ nhơn nhẫm tử, tẩm bất trắc, toạ bất thiên, lập bất dược, bất thực tà vị. Cát bất chánh bất thực, tịch bất chánh bất toạ. Mục bất thị tà sắc, nhĩ bất thính dâm thinh, dạ tắc lệnh cổ tụng thi, đạo chính sự. Như thử tắc sanh tử hình dung đoan chính, tài trí quá nhân hĩ. Người phụ nữ mang thai, nằm không nghiêng, ngồi không lệch, đứng không nhón chân. Không ăn vị lạ, bánh cắt không vuông vức không ăn, chiếu trải chưa ngay ngắn, không thẳng thớm không ngồi, không đi đường tắt, không xé rào, không vạch lối để băng tắt, tai không nghe tiếng tà, mắt không nhìn sắc quấy. Nếu cần nghe thì đọc những chuyện danh nhơn, anh hùng để tư tưởng đó uốn nắn đứa bé. Làm được như vậy thì sanh con không thánh cũng là hiền.
Cho nên, chúng ta thấy thánh hiền ngày xưa nhiều phải mang ơn người mẹ. Do người mẹ tu dưỡng, chuyển hóa để nuôi dưỡng tâm hồn đứa con. Có những em bé sanh ra rất là hiền lành chỉ cần mở cái nhạc Phật, nhạc thiền là em bé ngủ. Tại vì lúc mang thai mẹ của bé thường nghe nhạc Phật, tụng kinh. Khi em bé sanh ra, những âm nhạc đó rất gần gũi với nó, không cần phải ru lâu, mở nhạc đó lên là bé ngủ. Có những đứa bé hễ gặp Phật là nó lạy Phật, niệm Phật. Tất cả đều nhờ ân đức của cha mẹ chăm sóc cộng với phước đức của bé gặp nhau. Nhưng có những em bé mà bây giờ sanh ra lầm lũi, len lén tại hồi xưa là ăn vụng rồi sợ hãi sợ gia đình nội ngoại hai bên phát hiện nên trốn lánh. Chúng ta nuôi tư tưởng sợ hãi lúc mang thai cho nên bây giờ đứa bé cũng bị ảnh hưởng tâm lý. Vì thế, nếu cha mẹ được tu tập, đứa con muốn đến với gia đình đó nó phải ở tần số cùng tu tập.
Chúng ta phải biết ơn cha mẹ, cho dù là các vị tái sanh mà mình gọi là mượn cửa đi cũng phải cám ơn. Tôn giả शारिपुत्र Śāriputra, Sāriputta 舎利弗 Xá Lợi Phất gọi mẹ mình là Đại thí chủ vì bà đã ban tặng xác thân này cho ngài. Cũng từ khi mang thai Tôn giả, tự nhiên bà có tài ăn nói rất là trôi chảy, có khả năng hùng biện. Cậu của ngài là nhà luận sư phải chịu thua. Có ơn với nhau là vậy
Chúng ta thấy hình như là tất cả những tuổi thanh xuân của cha mẹ đã dồn hết qua bên ta. Cho nên mỗi lần mà chúng ta nhìn thấy môi mình còn hồng, mắt mình sáng, da mình còn căng, hãy nhớ tất cả những thanh xuân tươi đẹp của cha mẹ mình cho mình hết rồi. Mình mà thấy được nước da, khuôn mặt, nét mặt của mình tươi tắn, hồng hào thì mình coi lại tóc trên đầu của cha mẹ mình là bạc, da đã nhăn nám. Cha mẹ đã tần tảo thức khuya, dậy sớm, buôn tảo bán tần,một nắng hai sương, mang sao đội nguyệt, cực khổ trăm bề nuôi cho con. Nuôi cho con ăn học lớn lên nói một tiếng, nó trả lời tám tiếng. Cha mẹ buồn rồi đó. Nếu như các bạn trẻ đối xử với cha mẹ mình như thế nào thì sau này con cái của các bạn cũng sẽ đối xử lại các bạn như thế đó. Ai không tin nhìn giọt nước mưa trên mái nhà kêu rơi xuống thì biết giọt thứ nhất từ chỗ nào rơi xuống thì trăm ngàn giọt nước sau cũng sẽ từ chỗ đó mà rơi xuống. Cho nên phải biết ơn cha mẹ.
孝順還生孝順子 Hiếu thuận hoàn sanh hiếu thuận tử
忤逆還生忤逆儿 Ngỗ nghịch hoàn sanh ngỗ nghịch nhi
不信但看檐頭水 Bất tín đản khán thiềm đầu thủy,
點點滴滴不差移。Điểm điểm trích trích bất sai di.
Hiếu thuận sanh ra con hiếu thuận Ngỗ nghịch nào con có khác chi! Xem thử trước thềm mưa xối nước Giọt sau giọt trước chẳng sai gì. (Trích 孝行篇第四條 Hiếu hạnh thiên đệ tứ chương 4 Hiếu Hạnh, 明心寶鑒 Minh Tâm Bảo Giám)
Có một gia đình cho con đi du học lâu quá con không về nên qua bên đó thăm và thấy tư tưởng nó khác rồi nên về buồn khóc. Họ lên chùa tâm sự, trút hết cho ông Phật rồi nếu mà tin tưởng nữa trút cho mấy thầy. Tôi chia sẽ thế này: “Khi chị đã chấp nhận cho cháu đi học thì chị phải chấp nhận nó tiếp xúc với một nền văn hóa mới, khác với văn hóa của cha ông chúng ta. Cho nên chị phải chấp nhận cho nó tiến bộ chứ chị đừng bắt là ngày xưa mình không được học. Bây giờ bắt nó phải học cho mình. Không có vụ đó. Cho nó tiếp nhận, phải chấp nhận nó tiếp xúc nhưng chị nhắc như thế này. Con nè, mỗi sáng con thức dậy, rửa mặt con nhìn vô mặt gương, nhìn vô kính, con thấy khuôn mặt con đẹp và cha mẹ ban tặng cho con gương mặt đẹp như vậy. Con cố gắng sống như thế nào để mỗi lần con nhìn vào gương, con vẫn nở một nụ cười vì mình vẫn giữ được cái đẹp như thuở nào cha mẹ mình ban tặng cho. Nhắc nhở vậy thôi. Rồi từ từ nó sẽ thấm. Con sống như thế nào đừng để vầng trán con bị xếp ly, khóe mắt con nó đã chẻ chân chim. Nhắc nhở vậy thôi. Chứ mình không thể bắt nó phải làm y xì như lúc ở Việt Nam đâu.”
Chúng ta hãy trân quý những hạnh phúc, những điều kiện hạnh phúc đang có mặt ở trong ta và chung quanh ta. Đó là ta được cha mẹ thương yêu, nuôi dạy, chăm sóc. Dù hoàn cảnh của ta không phải như gia đình các bạn khác giàu có, sung túc nhưng ta vẫn có được bữa cơm ngon, có được chiếc áo lành để mặc, có được cái không gian hạnh phúc vui đùa là quý lắm rồi, đòi cái gì nữa. Nhiều khi ngồi trong một không gian cung điện lộng lẫy mà cha mẹ không còn, những tàng cây cao bóng cả không còn che chở ta nữa. Những lúc mà chúng ta trăn trở không ai có một lời khuyên, không lắng nghe được những kinh nghiệm của người đi trước, của cha mẹ. Đó mới là bất hạnh. Sức khỏe của một em bé, hạnh phúc của một cậu thanh niên, của một cô thiếu nữ. Tất cả đều từ cha mẹ chúng ta. Cha mẹ chúng ta đã biết tu dưỡng, uốn nắn như thế nào để ta có tư tưởng đẹp, có những phẩm chất đẹp, có được cuộc sống đầy đủ và có được sự hiểu biết ngày hôm nay. Tất cả đều do cha mẹ ta tạo nên. Chúng ta luôn biết ơn.
孝 hiếu là một từ ngữ nói lên sự biết ơn và luôn luôn đền ơn. 孝 hiếu cũng như 忠 trung, 慈 từ, 悌 để, 情tình, 義 nghĩa. Chẳng qua người dân đối với quê hương, Tổ Quốc là 忠 trung. 慈 từ là tình thương của chư Phật đối với chúng sanh. 悌 để là đạo lý của anh chị em đối với nhau. Đạo lý của vợ chồng đối với nhau là 情 tình. Đạo lý của bè bạn đối với nhau gọi là 義 nghĩa. 慈 Từ, 義 Nghĩa, 忠 Trung, 情 Tình, 孝 Hiếu, 悌 Để là những danh từ nói lên lòng thương tưởng và niệm biết ơn. Chẳng qua thiên tước của người thi ân cho mình khác nhau. Vị trí khác nhau cho nên từ ngữ đổi khác nhưng cùng chung một ý nghĩa là biết ơn và đền ơn. Vì vậy, cho nên khi nói hiếu không phải tôi có hiếu với mẹ tôi nói như vậy là xong. Hiếu mà không có tình thương thì hiếu sẽ khô khan, vụng về. Hiếu phải có tình thương mà đã có tình thương rồi thì tự nhiên mình biết mình phải làm gì để cho mẹ mình hạnh phúc và mình cũng hạnh phúc. Hạnh phúc không phải là vấn đề một chiều. Nếu mẹ cha có hạnh phúc mà con không có hạnh phúc thì cũng không cha mẹ nào có hạnh phúc. Ngược lại, con cái có hạnh phúc mà cha mẹ không có hạnh phúc thì con cái cũng không thể nào mà yên ổn trong cái hạnh phúc đó. Hạnh phúc phải có mặt ở trong đời sống của mẹ con, cha con, vợ chồng, anh em, chị em, bè bạn. Đức Phật dạy hạnh phúc cá nhân mà chúng ta có được phải được làm bằng hạnh phúc của tập thể. Mọi người chung quanh ta phải có hạnh phúc, an vui thì hạnh phúc của ta mới được nuôi dưỡng và thêm lớn. Đây là điều mà chúng ta luôn luôn phải quán niệm.
Vì vậy, trong kinh Đức Phật dạy có ba việc chúng ta cần phải tu tập để phát sanh ra phước: thứ nhất là phước từ 敬田 kính điền, thứ hai là phước từ 恩田 ân điền và cuối cùng là phước từ 悲田 bi điền. 敬田 kính điền là tu tập biết tôn kính các bậc thánh nhơn, tôn kính Tam Bảo. Từ đó, chúng ta phát nguyện tu tập phát sanh ra phước. Công đức của phước từ tu tập mà có cho nên gọi là 敬田 kính điền. Biết phụng dưỡng cha mẹ, thảo thuận anh chị em. Phước từ lòng biết tôn kính báo ân mà có cho nên phước đó gọi là 恩田 ân điền. Phước từ 悲田 bi điền có nghĩa là thương tưởng đến đồng bào đến mọi người đến những hoàn cảnh bất hạnh hơn ta mà chúng ta luôn luôn mở tâm mình ra, biết chia sẻ, biết hiến tặng, biết giúp đỡ, biết làm những việc từ thiện, nghĩa lợi. Chúng ta đi bố thí, đi từ thiện cho đến chúng ta sắm một chén cháo để cúng thí, tổ chức một pháp hội để truy tiến. Tất cả những việc làm đó phát sinh phước. Phước từ tình thương, chạnh lòng đến những hoàn cảnh khổ đau hơn mình mà làm đó là ba việc làm để để chúng ta chế tác được phước đức. Đó là từ 敬田 kính điền, 恩田 ân điền, 悲田 bi điền.
Khi làm được công việc chế tác ra được phước đức rồi đem công đức đó để hồi hướng dâng lên cúng dường cha mẹ, tổ tiên thể hiện lòng biết ơn đối với những người đã chăm sóc,nuôi dưỡng ta, đã làm cho ta có được cuộc sống như ngày hôm nay. Làm được như vậy là Phật tử. Vì thế, đạo Phật là đạo từ bi. Tâm từ bi là tâm thương yêu. Thương yêu phải khởi đầu bằng thương yêu cha mẹ. Từ đó mới phát triển đến tận cùng là thương yêu khắp cả chúng sanh. Do vậy, đạo Phật là đạo hiếu và những lễ nghi mà chúng ta thường tổ chức trong những dịp Vu Lan, nội dung chính là tu tập để đền ơn và báo ân. Chẳng qua hình thức có thể nó hơi sai khác vì những hình thức đó là chúng ta làm theo văn hóa của người Việt Nam, của Phật giáo cộng với văn hóa Việt Nam nhưng nội dung vẫn phải đầy đủ là phải từ lòng biết ơn và muốn đền ơn nên tu tập mà cúng dường, bố thí, tụng kinh, lễ sám v.v
Cho nên ân đức của cha mẹ, ân đức của chúng sanh, ân đức của quốc vương, ân đức của Tam Bảo. Ân Tam Bảo bao gồm luôn ân đức của thầy tổ trong đó. Người học Phật luôn luôn ghi nhớ, cung kính và làm thế nào để đền ơn đáp nghĩa. Trong mùa Vu Lan chúng ta hãy làm một việc gì đó Tuỳ phận. Hiến tặng một niệm an lành, một nụ cười, một lời kinh, một hành động cho đến một chén cháo, một gói quà. Tất cả sự hiến tặng tuỳ hoàn cảnh. Tôi nghĩ ai ai cũng làm được. Và những công đức tu tập có được, chúng ta dâng lên Tam Bảo chứng minh hồi hướng đến cha mẹ. Nhà nho người ta có câu nói 愼終追遠,民德歸厚矣。Thận chung truy viễn, dân đức quy hậu hỉ. (Trích 學而 chương Học Nhi, 論語 Luận Ngữ). 愼終 thận chung tức là luôn luôn chăm chú, tận tụy chăm sóc đến những người ân nhơn của ta đang có mặt với ta. 追遠 truy viễn tức là đối với những tổ tiên những người ân nhơn đã qua đời mà chúng ta cũng phải ghi nhớ, hồi hướng công đức đến tổ tiên cửu huyền thất tổ quá vãng cách ta đã mấy đời mà ta còn ghi nhớ, tưởng niệm. Việc làm đó cũng nói lên được đối với những người ân đang sống chung với ta, đang có mặt với ta trong từng phút giây hiện tại này.
Chúng ta hãy sống như thế nào để mỗi lần thắp hương nhìn lên Đức Phật, nhìn lên di ảnh của ông bà, cha mẹ, tổ tiên chúng ta chúng ta chảy những giọt nước mắt hạnh phúc tròn đầy. Vì ta cũng đã làm chứ không phải những giọt nước mắt ân hận tiếc nuối. Nhân đầu tháng 7, mùa Vu Lan lại trở về với Phật Giáo đồ khắp năm châu với phật tử Việt Nam chúng ta, tôi xin chia sẻ vài quan niệm nhỏ nói về ân của cha mẹ và cũng mong mọi người con Phật khắp nơi hãy sống trọn vẹn với những ân tình thiêng liêng đó.
Trung nguyên ngày vọng hội Vu Lan
Bến Giác chiều thu sóng đạo ngàn
Những ai là kẻ mang ơn nặng
Đều vận lòng thành đón Vu Lan.
Nam mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát.
- Trích Pháp Ngữ Thầy Định Thành -
Ý NGHĨA CHÚ DƯỢC SƯ _ HT Thích Lệ TrangXuân đến rồi đi, hoa nở lại tàn, đó là định luật muôn thuở của vũ trụ. Tuy nhiên, có một mùa xuân không đến cũng không đi, hoa xuân vẫn nở mãi trong lòng người con Phật, không bao giờ tàn phai, một mùa xuân bất tận cho những ai thấy được thực tướng của các pháp.
Ta thấy được tinh thần nầy qua bài thơ của Thiền sư Đạo Xuyên:
远观山有色
近听水无声。
春去花还在
人来鸟不惊。
头头皆显露
物物体元平。
如何言不会
祗为太分明。
“Viễn quan sơn hữu sắc.
Cận thính thủy vô thinh.
Xuân khứ hoa hoàn tại.
Nhơn lai điểu bất kinh.
Đầu đầu giai hiển lộ.
Vật vật thể nguyên bình.
Như hà ngôn bất hội.
Chỉ vị thái phân minh.”
Tạm dịch:
Đứng xa nhìn mà núi vẫn màu xanh.
Lại gần nghe nước chảy không âm thanh.
Xuân đi hoa còn nở.
Người đến chim không sợ.
Mọi thứ hiển bày rõ.
Mọi vật tánh bình lặng.
Nói mãi sao không ngộ.
Do phân biệt quá nhiều.
Văn từ trong bốn câu đầu bài thơ miêu tả như một bức tranh, cho nên có khi người ta gá thêm chữ “họa” ở đầu đề. Họa về cảnh núi non thì ta thấy quá rõ về hình sắc, nên đứng xa thấy vẫn có suối chảy, có chim, có hoa núi bừng khai khi xuân về ấm áp; Khi đến gần thì không nghe tiếng suối chảy; Dù mùa xuân qua rồi nhưng hoa vẫn còn nở mãi; Người đến nhưng chim không bay đi. Bốn câu nầy mới đọc qua ta thấy tác giả dường như đang diễn tả về một bức tranh, đề cập về ngoại cảnh thiên nhiên.
Thế nhưng, bốn câu sau ta thấy tác giả không đề cập gì đến bức tranh cả, mà nói toàn nói về tự tánh thanh tịnh của nội tại, mượn cảnh để nói về thiền lý, nhìn cảnh vật với một tự tánh thanh tịnh.
Do đó, mới thấy được mọi thứ đều là đạo, mọi chỗ đều hiển lộ tự tánh sáng suốt, mọi sự mọi vật tự tánh của chúng vốn giống nhau, xưa nay vốn bình đẳng không hai không khác. Sở dĩ không rõ được bản thể xưa nay, chỉ vì rơi vào sự phân biệt tầm thường, rồi tư duy chấp trước.
Tự tánh thấy núi, mặc dù có sắc tướng, nhưng có cũng như là không, tất cả chỉ là huyễn tướng; tự tánh nghe nước chảy, mỗi tiếng đều không có thực thể, nên có tiếng cũng như là không tiếng; tự tánh nhìn thấy hoa mùa xuân, không có thủ xả, ngay lúc ấy đó chính là tự tánh, cho nên mùa xuân đi qua rồi hoa vẫn còn hé nụ, đây là hoa của tự tánh, mà hoa của tự tánh thì không có tàn phai, vì tự tánh vốn không có duyên sanh diệt; người đến gần, chim vì sợ mà bay đi, nhưng tự tánh của chim thì vẫn tự tại như nhiên, không từng sợ sệt điều chi. Tất cả mọi thứ hiển bày rõ thì đều là tự tánh đại đạo; muôn sự muôn vật đều có tự tánh thanh tịnh, xưa nay vốn bình đẳng; Thiền sư đã nói như vậy mà không lãnh hội được, bởi vì người ta thường đem tự tánh thanh tịnh sáng suốt chuyển thành vọng thức tư duy phân biệt. Vậy thì toàn bộ bài thơ là nói về Thiền lý, trong đó liên quan đến cảnh vật và con người đạt đến sự triệt ngộ. Thiền sư Bàng Uẩn nói:
但自无心于万物
何妨万物常围绕
铁牛不怕狮子吼
恰是木人见花鸟
木人本体自 无情
花鸟逢人亦不惊
心境如如只个是
何虑菩提道不成
庞蕴居士
Phiên âm:
Đản tự vô tâm ư vạn vật
Hà phương vạn vật thường vi nhiễu
Thiết ngưu bất phạ sư tử hống
Kháp tự mộc nhân kiến hoa điểu.
Mộc nhân bản thể tự vô tình
Hoa điểu phùng nhơn diệc bất kinh
Tâm cảnh như như chỉ cá thị
Hà lự Bồ đề đạo bất thành
(Bàng Uẩn Cư sĩ).
Tạm dịch
Đối với muôn vật vô tâm nha
Nào ngăn muôn vật nhiễu hại ta
Trâu sắt thản nhiên Sư tử rống
Khác gì người gỗ ngắm chim hoa.
Tình trong người gỗ vốn là không
Người gặp chim hoa bản thể đồng
Tâm cảnh như như là thế đấy
Lo gì giác ngộ chẳng thành công.
Đây là miêu tả sự thanh tịnh của tự tánh, bặt dứt tư lự không còn dùng phán đoán của tâm thức, vạn vật như nhiên. Chính vì tự tánh thanh tịnh, nên đối với cái nhìn về vạn vật xung quanh hoàn toàn thanh tịnh.
Tướng do tâm sanh, cảnh theo tâm hiện, nội tâm thanh tịnh thì ngoại tướng tự nhiên cũng thanh tịnh. Tâm mình vui vẻ điều hòa, thì ngoại duyên cũng vui vẻ điều hòa. Tâm mình thay đổi thế nào, thì thế giới cũng thay đổi như thế ấy.… tâm ta buồn thì nhìn vạn vật u buồn, tâm ta vui nhìn vạn vật vui,… bởi vì tâm làm chủ muôn vật.
Tự tánh thấy núi tuy có sắc tướng, thì có cũng như không, chỉ vì huyển tướng mà thôi. Tự tánh nghe tiếng nước chảy, biết tiếng vốn là không thật, cho nên có tiếng cũng như không.
Tuy nhiên, mây bay nước chảy là hiện tượng tự nhiên, chúng ta phải sống hài hòa với thiên nhiên, không thể nào tách rời mà tồn tại.
Tự tánh xem hoa mùa xuân nở, không có lấy không có bỏ, không khen không chê, ngay lúc ấy là tự tánh. Cho nên mùa xuân đi rồi mà hoa vẫn còn nở.
Hoa bên ngoài có nở có tàn, dù là hoa trong bức họa đi nữa rồi cũng sẽ hư mục, nhưng hoa lòng, hoa giác ngộ, thì mãi mãi nở trọn vẹn trong tự tánh.
Câu mùa xuân đi rồi mà hoa vẫn còn hàm tiếu, ý nói thời gian dù có thay đổi, cảnh vật dù có bị vô thường chi phối, nhưng tâm hoa vẫn luôn luôn tồn tại. Sắc thân thì mất, nhưng pháp thân vẫn thường hiện hữu, pháp thân không bị vô thường chi phối. Mùa xuân ấy là biểu tượng của sự khai ngộ trong tiềm thức.
Thiền sư Mãn Giác có bài thơ sau:
春去百花落
春到百花开
事逐眼前过
老从头上来
莫谓春残花落尽
庭前昨夜一枝梅.
Phiên âm:
Xuân khứ bách hoa lạc.
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhãn tiền quá.
Lão tòng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận.
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Tạm dịch:
Xuân đi trăm hoa rụng.
– Vì đây là hoa của cây cỏ, hoa ở ngoại cảnh thiên nhiên.
Xuân đến trăm hoa nở.
– Đúng thời tiết nhân duyên thì bừng nở
Trước mắt việc qua mãi.
– Sự vô thường xoay vầy thay đổi, mọi việc diễn biến theo quy luật thành trụ hoại không, sanh trụ dị diệt.
Trên đầu già đến rồi.
– Còn con người thì phải biến thiên theo bốn tướng sanh lão bệnh tử.
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết.
– Hoa trong tự tánh không tàn phai dù mùa xuân đã qua.
Đêm qua sân trước một cành mai.
– Hoa nầy vượt ra ngoài khái niệm của thời gian.
Vì đây là mùa xuân giác ngộ, tự tánh đã bừng khai.
Mọi việc xao động, tâm viên ý mã đã ẩn sâu, bặt dứt hết núi tự ngã kia, thì hoa giác ngộ sẽ hiện hữu mãi trước mặt. Cho nên hoa tự tánh thì không tàn tạ theo thời gian, vì tự tánh thì làm gì có sanh diệt?.
Như sự ngộ đạo của Thiền sư Linh Vân, sau bao nhiêu năm bôn ba tham học với những bậc có tuệ giác lớn, nhưng đến khi thời tiết nhơn duyên đã chín mùi, Lúc dừng lại ngắm nhìn hoa đào nở thì ngộ đạo, Ngài làm bài thơ diễn tả cảnh ngộ của mình trình lên Thiền sư Qui Sơn ấn chứng:
三十年来寻剑客
几回落叶又抽枝
自从一见桃花後
直至如今更不疑
灵云志勤禅师.
Phiên âm:
Tam thập niên lai tầm kiếm khách
Kỷ hồi lạc diệp hựu trừu chi
Tự tùng nhất kiến đào hoa hậu
Trực chí như kim cánh bất nghi
Tạm dịch:
Ba mươi năm rồi tìm kiếm khách
– Sau nhiều năm bôn ba tham học với những bậc giác ngộ trí tuệ, để mong cầu chứng đắc cho mình, trong Phật giáo kiếm là tiêu biểu cho trí tuệ sắc bén.
Bao lần lá rụng lại đâm chồi
– Trải qua thời gian dài, qua bao độ biến thiên của sự vật, lá già rụng chồi non ra. Thu đi xuân đến, nhưng chưa thấy gì là chứng đắc, chỉ vì lo đi tìm ở bên ngoài, bỏ quên ông Phật trong lòng mình.
Từ khi nhìn thấy hoa đào nở
– Đương niệm tiếp xúc với hiện thực khách quan, hòa nhập tâm hồn vào trong rạng thái ngay bây giờ và ở đây. Không tìm kiếm xa vời nữa, vô thường tức thường; sắc chính là không, không chính là sắc; sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Không phân biệt nhị biên, đã về tức là đã tới.
Mãi đến hôm nay chẳng còn nghi.
– Tuệ giác đã bừng khai, vạn hữu hiển hiện rõ ràng ngay trong đương niệm, không còn tư lự phan duyên nghi ngờ gì nữa.
Thật là “Phật tức tâm, tâm thành vốn có Phật; Tâm tức Phật, Phật chứng ở tấm lòng thành”.
Mọi việc xao động tiêu tan, tâm ý phân biệt và núi tự ngã không còn, thì hoa giác ngộ sẽ hiện hữu mãi trước mặt.
Người đến chim thấy vì sanh tâm sợ hãi mà bay đi, nhưng chim trong tự tánh thì vẫn như nhiên không lay động, không từng kinh sợ lo lắng, tất cả muôn sự muôn vật ở thế gian bổn tánh vốn là thanh tịnh.
Cho nên khi Phật mới thành đạo Ngài nói: “Nào dè tự tánh xưa nay vốn thanh tịnh” hay Ngài cũng đã từng nói: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”.
Tự tánh xưa nay thanh tịnh, bình đẳng, như thế thì tại sao Thiền sư lại phải mở lòng từ nói như thế, bởi vì con người đa phần rơi vào trạng thái tư duy phân biệt, đem tự tánh sáng suốt giác ngộ bỏ quên, cho nên mới có câu “Vác Phật đi qua nhà người để tìm Phật”.
Đây là một sự đương niệm hiện thực của hành giả trong thiền lâm, Thiền sư Huyền Quang có bài thơ nói rõ về tinh thần không phân biệt nầy, chỉ biết nhìn vào ngay hiện thực, nhìn cho thật rõ những gì đang xảy ra, không suy niệm về tương lai hay quá khứ.
花在庭中人在楼
焚香独坐自忘忧
主人与物浑无竞
花向群芳出一头
Phiên âm:
Hoa tại đình trung nhơn tại lâu
Phần hương độc tọa tự vong ưu
Chủ nhơn dữ vật hồn vô cạnh
Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu.
Tạm dịch:
Người ở trên lầu hoa dưới sân
– Người và cảnh cùng hiện hữu trong một không gian.
Vô ưu ngồi ngắm khói trầm xông
– Biết trở về chính mình an nhiên không tư lự, vượt ngoài cái hạn hữu của thời gian.
Hồn nhiên người vật không tranh cạnh.
– Người là người vật là vật, không phân biệt nhị biên, không bị trần cảnh chi phối.
Đóa hoa nở rộ ngát hương thiền
- Cảnh tượng trước mắt, một thực tại trí tuệ hiện tiền, hương hoa giác ngộ thơm ngào ngạt khắp chốn.
Trong “Huệ Hải Thiền Sư nói: “Người mê không biết pháp thân, thì chẳng gì khác ứng vật hiện hình, bèn gọi xanh xanh trúc biếc đều là pháp thân, rực rỡ hoa vàng đều là bát nhã. Hoa vàng nếu là bát nhã, thì bát nhã tức đồng với vô tình; trúc biếc nếu là pháp thân, thì pháp thân tức đồng với cây cỏ.”
Về sau nầy, nhân vì thế mà câu “Trúc biếc hoa vàng” là chỉ cảnh tượng trước mắt, thực tại đang là, không truy tìm về quá khứ, không ước vọng tương lai, mà là một thực tại hiện tiền. Hoa vàng còn chỉ cho hoa cúc.
Sách “Lễ Ký. Thiên Nguyệt Lệnh” chép: “Tháng cuối thu, hoa có màu vàng thì chỉ có loài hoa cúc”.
Ý thức luôn luôn chạy theo vọng tưởng, đó là căn bệnh cố hữu của tất cả chúng sanh. Vì vậy làm thế nào để “Tâm không ngăn ngại nơi mọi vật”, rỗng suốt tất cả, để đạt được tâm cảnh an nhiên, tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên.
Năm mới xuân về trăm hoa đua nở, cũng chính là hình ảnh bao nhiêu hoa nở của những mùa xuân trước “tân niên hoa phát cố niên hoa”, đời như bào ảnh nhấp nhô giữa trùng dương mênh mông, công danh phú quí khác chi đám phù vân lênh đênh trên nền trời, bốn mùa xoay vần hết xuân rồi lại đến thu, cuộc sống cứ tiếp diễn và trôi qua mãi mãi không bao giờ dừng lại. Chỉ có Đức Phật ngài đã tìm ra mùa xuân mới, một mùa xuân không có thời gian cũng không có không gian, một mùa xuân giải thoát an lành cho nhân loại.
Cho dù trong cuộc sống gặp nghịch cảnh đi nữa, chúng ta cũng nên nở một nụ cười hoan hỷ buông bỏ tất cả, bặt dứt hết mọi ý niệm phân biệt nhị biên để “ánh xuân quang Phật nhật” được bừng lên từ cõi miền sâu xa của dòng tâm thức vô tận. Lúc ấy chúng ta sẽ nhận ra được thể tánh sâu xa bình đẳng của vũ trụ vạn hữu. Trăm hoa đua nở ta đều biết, vạn vật đổi thay ta đều hay, vui xuân trong sự tỉnh thức, không chạy theo ảo ảnh sanh diệt của ngoại cảnh, mà sống trọn vẹn với chất xuân, chất xuân luôn hiện hữu, mà đã luôn hiện hữu, thì nào có đến có đi?. Tuy ta đón xuân một cách tuỳ duyên tùy tục, nhịp nhàng với cuộc sống đời thường nhưng từng bước chân thực tại vẫn đang an trú trong niềm hỷ lạc vô biên. Vì lẽ dòng suối hài hoà và niềm hạnh phúc chân chánh ấy, được khơi nguồn từ sự bình an vô tận, trong một tâm hồn khoáng đạt chứ không phải hướng về ngoại cảnh để truy cầu.
Năm tháng không chờ đợi người, sanh già bệnh chết ấy là lẽ thường tình của nhân sinh, sống chết chẳng qua chỉ là một giai đoạn trong tiến trình của sinh mạng. Đương nhiên, sự sống chết sẽ không còn là một chuyện thần bí nữa, nếu những ai đã thấy rõ được thực trạng của nó và tất cả chúng ta dường như ai ai cũng không thể đoán trước được điều gì sắp xảy ra trong một tương lai đầy hứa hẹn nào đó.
Người xưa khuyên chúng ta hãy nên siêng năng tu tập ngay từ khi tuổi còn trẻ, vì lúc tuổi già gặp nhiều sự trở ngại không thể tu được. Nếu người “việc làm đã xong” thì cho dù đại hạn có đến đi nữa nhưng họ vẫn tự tại an vui, không còn bối rối và bị nghiệp lực bức bách, như người tất bật lo toan trang trải nợ nần trong ngày chạp Tết.
Quá khứ thì đã qua rồi, hiện tại vẫn còn đang tiếp diễn, tương lai là những gì chưa thấy đến, người học Phật chúng ta nên vượt khỏi mọi ngăn cách của thời gian để thấy được lẽ hiện thực của cuộc sống.
Chúng ta nên hiểu biết thương yêu nhau, hãy đặt niềm tin tha thứ cho nhau, cùng dìu nhau trên bước đường giải thoát, an trú trong thực tại với tràn đầy niềm hỷ lạc, mùa xuân ngay bây giờ và ở đây. Được vậy thì “Xuân đi rồi mà hoa vẫn còn hé nụ”, mùa xuân nầy không còn hạn cuộc bởi khái niệm về thời gian và không gian nữa, mà là xuân trong tự tánh đương niệm thực tại hiện tiền.
Nha Mân 2024.
THÍCH THỊ PHƯỚC
Từ đó, nguồn cội yêu thương hiếu đạo đã được khơi dậy một cách mạnh mẽ, nên rằm tháng bảy trở thành một lễ hội truyền thống tri ân cao quý của Phật giáo: Tết trung nguyên, rằm tháng bảy, địa quan xá tội, Mục liên cứu mẹ, lễ tự tứ,…Đây là ngày lễ truyền thống của đạo lý Việt Nam, dạy cho mọi người xóa bỏ hận thù, biết làm mới với tinh thần “Xá Tội – tha thứ những lỗi lầm”.
Con quỳ lạy Phật Thích Ca
Chứng minh đệ tử tên là Mục Liên
Lòng con mộ đạo tu hiền
Xuất gia theo Phật cầu nguyền hôm nay.
Nghe kinh Phật thuyết bảy ngày
Minh tâm kiến tánh như lai trọn lành
Lục thông đầy đủ nên danh
Muốn tìm Cha Mẹ lòng thành gắng công.
Đền ơn cho bú ẵm bồng
Liền dùng đạo nhãn xem liền thế gian
Thấy vong Mẹ khổ muôn vàn
Ốm gầy đói khát trong đàng quỷ ma.
Mục Liên kêu Mẹ khóc la
Đau lòng thương Mẹ đọa sa Diêm đình
Thanh Đề nhìn thấy con mình
Mục Liên cứu Mẹ hết tình gắng công.
Con ơi! Mẹ đói trong lòng
Mục Liên nghe nói khóc ròng thở than
Vội vàng trở lại thế gian
Bới cơm một bát đem sang Mẹ mừng.
Và cơm vô miệng nửa chừng
Chén cơm hóa lửa phừng phừng thành than
Mục Liên xem thấy kinh hoàng
Trong lòng đau đớn khóc than buồn tình.
Mẹ ơi! Niệm Phật độ mình
Trở về lạy phật cầu xin Mẹ già
Thích Ca Đức Phật phân qua
Mẹ ngươi tội nặng đọa ra nghiệp hành.
Ta truyền cứu tế pháp lành
Cần cầu Tăng chúng tịnh thanh chú nguyền
Cầu cho Phụ Mẫu hiện tiền
Lục thân quyến thuộc bình yên đều hòa.
Bảy đời Phụ Mẫu đã qua
Về Trời hưởng phước sáng lòa hào quang
Vui chơi thong thả thanh nhàn
Ngày rằm tháng Bảy lập đàn trai tăng.
Sắm cơm trăm món đồ ăn
Trái cây ngũ quả hương đăng rõ ràng
Chiếu, giường, bồn nước, mùng, màn
Dầu, đường, trà lá, bát vàng đựng cơm.
Những đồ vật quý bông thơm
Thành tâm dọn tiệc Lan Bồn phân minh
Cúng dường Tam Bảo cầu Kinh
Chư Tăng tịnh giới giữ gìn nghiêm trang.
Cầu cho Thí chủ Trai đàn
Tâm hành thiền định vái van chúc nguyền
Thanh Đề khổ ách hết liền
Ngày rằm tháng Bảy thành tiên về Trời.
Noi gương hiếu thảo đời đời,
Xót thương Phụ Mẫu hiện thời nuôi con.
Nhai cơm cho bú hao mòn
Ơn sâu nghĩa nặng thương con hết lòng.
Trời cao đất rộng mênh mông
Biển hồ lai láng sánh đồng Thái sơn
Tu hành báo tứ trọng ân
Độ đời ba cõi sạch trơn trọn lành.
Mục Liên đại hiếu tu hành
Báo ân Phụ Mẫu nên danh độ đời.
Câu chuyện của hai đóa hồng trong đêm trước ngày Vu Lan. Đó là Hồng Nhung đỏ Giảm và Hồng trắng tinh khôi.
Ngày lễ Vu La n người ta cài lên cánh mình đóa Hồng Nhung nếu họ may mắn còn có mẹ, người mất mẹ cài đóa Hồng trắng cho mình.
Đêm tháng 7 Âm lịch. Ngày trăng thứ 14 đủ tròn và sáng để chiếu lên vạn vật. Vườn hồng nằm dưới ánh trăng vàng dịu dàng. Tia sương của đêm đọng lại lá, lên những cánh hồng. Những đóa hồng tỏa mùi thơm khắp không gian về đêm. Chỉ còn đêm nay nữa thôi, sáng mai sớm hết những thứ đóa hồng này sẽ được ngắt, để người đời dùng chúng thay cho lời tri ân với mẹ! Ngày Lễ Vu Lan.
Hồng Trắng được trồng cạnh Hồng Nhung. Hồng Trắng say sưa tận hưởng cái lạnh của sương, uống lấy từng giọt sương để khiến mình có thể rực rỡ nhất vào ngày mai. Đóa Hồng Nhung nhìn bạn đang cố gắng hết sức có thể để tăng nhựa sống cho mình, Hồng Nhung rụt rè nói với bạn:
– Hồng Trắng ơi, mai là ngày lễ Vu lan rồi, cậu có buồn không?
– Tại sao lại buồn chứ?
Gương mặt Hồng Trắng vẫn tươi tắn lạ thường. Hồng Nhung khẽ khàng:
– Tớ không biết vì sao trong ngày lễ Vu lan con người lại dùng tớ, một loài hoa hồng mang màu đỏ để dành cho những người còn mẹ trên đời. Còn cậu – loài hoa hồng trắng luôn phải dành cho những người đã mất mẹ. Có khi nào cậu thấy buồn không?
– Không đâu, tớ không phải là đại diện cho sự bất hạnh của những người mất mẹ, tớ thay họ nói lên tình yêu vô bờ bến mà họ dành cho mẹ. Họ dùng tớ để thay lời cảm ơn và thể hiện lòng kính yêu với mẹ, ngay cả khi mẹ không còn trên thế gian này nữa. Được cài trước lồng ngực của những người mất mẹ, tớ nghe được tiếng thổn thức, một nỗi xót xa trào dâng qua từng nhịp đập của con tim.
- Nhưng những người còn mẹ sẽ vui vẻ hơn những người mất mẹ vì vậy nếu được chọn cài lên ngực những người còn mẹ sẽ hạnh phúc hơn rất nhiều phải không nào? Hồng Nhung gặng hỏi bạn.
- Tôi nghĩ đến tớ khi nằm trên thăng của người khác, những người may mắn còn mẹ sẽ hiểu họ cần phải làm gì xứng đáng với ân huệ mà cuộc đời còn dành cho họ. Họ cần phải có nhiều hơn để đến một ngày nào đó khi phải cài đặt lên vũ khí, họ không cảm thấy ân hận vì mình đã không làm một người tốt. Tôi hạnh phúc khi nói thay tình yêu của những người mất mẹ và nuôi dưỡng tới những người còn mẹ. Tôi đã làm giả sứ của tình nguyên tử quý giá.
Hồng Nhung nhìn Hồng ngưỡng ngưỡng. Cả hai yên lặng hút dưỡng dưỡng từ đất và uống sương đêm để mình đẹp hơn vào ngày mai.
(Diệu Bạch St)
◊-◊—————————————– ———————-◊-◊
NĂM THÁNG DẦN TRÔINĂM THÁNG DẦN TRÔI
Thích Thiện Phước
Cuộc đời là một hành trình luôn đưa ta về phía trước, không giậm chân tại chỗ, không lùi lại phía sau, từng bước chân trải dài ấy, luôn mang theo: Ước mơ thách thức, hạnh phúc niềm đau, nụ cười tiếng khóc, thất bại thành công, nhục vinh được mất,… có người đạt được đỉnh cao của sự nghiệp một cách mau chóng dễ dàng khi còn rất trẻ, có người lận đận mãi vẫn không thành, có người thì chưa lên đến đài vinh quang thì nhìn lại đã già, hơi tàn sức kiệt, rồi phải chống chọi chịu đựng với bệnh tật, như chờ đợi đến hồi kết thúc một chuyến đi xa…
Ai cũng có một thời vẫy vùng xông pha nơi chân trời góc biển, rồi cũng có lúc phải thu mình bình lặng chốn quê nhà, vui cùng cỏ nội mây ngàn, đếm từng giọt mưa rơi như dòng thời gian của đời người đang trút xuống… trở về sống cho mình, ngồi cắt móng tay, đếm từng hơi thở, soi gương nhìn mặt mình thật kỹ thật lâu, để thấy những nếp nhăn in đậm nét phong trần, thấy mây bay cuối tận chân trời mà lòng đầy xao xuyến, bỗng quên đi bao ký ức về cuộc đời thành bại nhục vinh, đã là lữ khách trần gian thì cái gì là của họ của ta, đến lúc an lòng nhìn lại buông xuôi muôn duyên để nhẹ lòng cho một chuyến đi về…“cô đơn không hẵn một mình, một mình không hẵn cô đơn”, chim hót, lá rơi, bầu trời đầy sao đêm…chỉ một mình ta nhưng ngập tràn hạnh phúc bao la.
Mờ sáng rừng thiền chưa dọi nắng
Đêm về hoa cỏ cũng lặng yên
Từng tiếng chim kêu bình minh dậy
Sương lờ bóng nguyệt giới hương bay.
Thật ra, đời người mau chóng lắm bạn, tất cả mọi chúng ta đều sẽ có ngày ly biệt và đến điểm dừng, đó là ngày mà mình rời xa thế giới nầy, ly biệt người thân thương, mọi thứ mà ta gắn bó trân quí yêu thích rồi cũng phải buông xuôi, ta không giữ mãi những gì mình có được, mất mát, đổi thay, tàn hoại…vì thế gian là vô thường, có một thứ không bao giờ thay đổi, đó là luôn luôn thay đổi, sống ở đời đôi lúc cũng phải tuỳ duyên, thay đổi chính mình cho phù hợp với thời đại hoàn cảnh, nếu ta không thay đổi thì sẽ bị thay thế và lùi về phía sau.
Nếu biết còn vài ngày, vài giờ, vài phút giây nữa để sống, thì bạn sẽ sống như thế nào, và làm gì cho khoảng thời gian còn lại của mình?… Ai nấy đều có nỗi khổ niềm đau, vì vậy cho dù hoàn cảnh nào, ta phải sống tràn ngập tình thương yêu: Bản thân, mọi người và muôn loài, khi tình thương đủ lớn thì cánh cửa khổ đau cũng dần khép lại, xin cho đi tình thương vô hạn bằng nhiều phương diện ở trong đời.
Lạy Phật mong sao cho con và mọi người mọi loài sống an lành tự tại, như cánh hạc tung bay giữa bầu trời cao rộng thênh thang, như những đám mây nhẹ nhàng phiêu bồng cao vút chốn thiên không, như dòng nước thì thầm len lõi xuyên qua mọi ngóc ngách của vũ trụ bao la, thong dong từng bước chân đi ngang cuộc đời một cách an toàn không vướng mắc, như làn gió thổi qua những cánh đồng hoa cỏ, mang theo hương thơm vi diệu lan tỏa khắp mọi chân trời.
Thời gian của kiếp người là một nguồn tài nguyên có giới hạn, không thể tái chế, mua bán, trao đổi, tiền bạc châu báu mất đi hôm nay, ngày mai có thể tìm được, còn thời gian trôi qua rồi, sẽ không bao giờ trở lại. Món quà vô giá này, tạo hóa đã ban cho chúng ta và muôn loài đồng đều như nhau. Mỗi ngày đêm có 24 giờ đồng hồ, nhưng chúng ta sử dụng vào việc gì, đó là chuyện cá nhân của từng người…
Đời người sống vài mươi năm, thật quá ngắn ngủi so với vòng luân hồi vô tận. Mỗi một hành nghiệp của chúng ta, dù tốt hay xấu, đều ẩn tàng lý nhân quả ở đó. Vì vậy, khi được làm thân người, bạn hãy tận dụng cơ hội hiếm có nầy, cố gắng sống nhân từ, đạo đức, chân chánh, trung nghĩa, thanh cao, liêm khiết,… trải lòng yêu thương giúp đỡ mọi người.
Cuộc đời, vốn dĩ có nhiều sự bất an đau khổ, ta nên sống sao cho có ý nghĩa, mang lại niềm vui cho mình và người. Ngày ngày tu nhân tích đức, sớm sớm tinh tấn công phu, cầu mong cho mọi người hết khổ, sống đời an vui hạnh phúc trong cõi phù du mộng ảo nầy.
Tuy nhiên, cuộc đời thật tươi đẹp cho những ai sống chân thật với nó: Và vẫn còn đâu đó những khoảng trời bình yên vô hạn, những đàn cò trắng bay lượn xa xa trên cánh đồng lúa bất tận giữa buổi chiều thu nhạt nắng, những khu rừng nguyên sinh xanh thẳm bao la, những dòng sông tĩnh lặng uốn khúc êm đềm, những chú ong dễ thương chăm chỉ hút mật, những đàn bướm bay chập chờn trong vườn hoa cỏ dại khi bình minh về còn đượm thấm sương đêm….thành trụ hoại không – thế gian vô thường, sanh già bệnh chết – thân người giả tạm, xuân hạ thu đông – năm tháng dần trôi, lá rụng về cội nước chảy ra khơi, an nhiên cho một chuyến đi về,…
Thong dong ở mọi phương trời
Mây bay gió thổi mong đời an yên.
Gót chân thoát tục tuỳ duyên
Lối về hoa cỏ thiên nhiên thanh nhàn.
Nha Mân, 03/2023.
Kinh Vu Lan – Thích Thiện Phước.