LỄ NHẠC PHẬT GIÁO VIỆT NAM
TRONG THỜI ĐẠI MỚI
TT.Thích Lệ Trang
LỜI MỞ ĐẦU
Đạo Phật – ngoài triết lý cao siêu vi diệu ra còn có cả một kho tàng văn hóa nghệ thuật, trong đó “Lễ nhạc” là một trong những nét nổi bật nhất của văn hóa Phật Giáo.
Mặc dù khác nhau về ngôn ngữ nhưng mỗi dân tộc, mỗi quốc gia đều phải học và hiểu như nhau về triết lý cao siêu của Đức Phật. Vì để tạo nên một nét riêng biệt, một tính cách không thể lẫn vào đâu của văn hóa Phật giáo mỗi nước chính là nhờ vào nền văn hóa nghệ thuật của nước đó. Điều này cũng khẳng định rằng, văn hóa nghệ thuật giữ một vai trò rất quan trọng trong tôn giáo nói chung và trong Phật giáo nói riêng.
Phật giáo Việt Nam suốt chiều dài lịch sử từ khi du nhập đến nay cũng đã khẳng định được điều đó thông qua những tác phẩm nghệ thuật bao gồm nhiều khía cạnh như văn học, kiến trúc Chùa tháp, điêu khắc hội họa và âm nhạc nghi lễ.
* LỄ NHẠC TRONG PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Phật giáo Việt Nam có cả một kho tàng âm nhạc nghi lễ ở cả 3 miền: Bắc – Trung – Nam, cho thấy nền âm nhạc nghi lễ ở nước ta hết sức phong phú về hình thức và đa dạng về chủng lọai.
Trên tôn chỉ hoằng pháp độ sanh, các Tổ Sư ngày xưa đã biết dùng âm nhạc nghi lễ làm phương tiện dẫn dụ để tiếp cận quần chúng, “nhạc dĩ tải đạo” – các Ngài đã biết sử dụng âm nhạc để chuyển tải chân lý của Đức Phật đến với mọi người nhằm mục đích hướng họ về với một đời sống thánh thiện.
Lễ nhạc Phật giáo là một trong các hình thức nghệ thuật trực tiếp gợi lên cảm xúc và dẫn đến sự đồng cảm. Lễ nhạc được phổ biến rộng rãi trong mọi lĩnh vực sinh hoạt của nhân loại: Ai nhạc khiến lòng người buồn thương, Hòa nhạc khiến tâm người vui vẻ, Quân nhạc khiến chí người phấn chấn, Thánh nhạc khiến thần người an tĩnh. Âm nhạc không có sự ngăn cách giữa nhân và ngã. Âm nhạc là một thứ ngôn ngữ chung của thế giới hữu tình.
Trong Phật giáo, lễ nhạc là một trong sáu món cúng dường. Với âm điệu thiền vị, nhạc khúc du dương, nó có tác dụng rất lớn đối với sự chuyển hóa nhân tâm.
Lời kinh tiếng kệ được diễn tấu thành những nét nhạc du dương, lung linh như khói trầm, uyển chuyển như tràng phang, an tĩnh như định lực, cao vút như núi tuyết, oai hùng như pháp cổ, giá trị của nó không chỉ dừng lại ở khía cạnh văn thơ, triết lý mà phần quan trọng đáng kể chính là đạo lực thanh tịnh của người tu hành.
Tìm về nguồn gốc khởi thỉ của lễ nhạc Phật giáo, thì nó được bắt nguồn từ “Veda” – Vệ đà. Đây là một thứ âm nhạc cổ đại trong văn hóa Ấn Độ. Kinh chép: Đức Thế Tôn cũng thường dùng Dà đà (kệ tụng) để làm phương tiện hoằng dương chánh pháp. Đồng thời Ngài cũng cho các Tỳ kheo chuyên chú vào việc đọc kinh (Thanh bái), Luật thập tụng chép: Thế Tôn khen ngợi Tỳ kheo Bạt Đề rằng: “cho phép ông được trì tụng kinh văn theo cách Dà đà”.
Vì nhạc khúc du dương và giai điệu thanh tịnh có khả năng chuyển hóa lòng người. Diễn tấu phạm âm có thể khiến cho vọng niệm tiêu tan. Cho nên, khi Phật còn tại thế, sau những buổi thuyết pháp, chư Thiên thường trổi nhạc để cúng dường, ca ngợi công đức của Tam bảo. Kể từ đó, âm nhạc đã trở thành một nghi thức không thể thiếu trong các pháp hội Phật giáo.
Phật giáo Việt Nam vào buổi sơ khai đã được các vị Cao tăng Ấn Độ theo thuyền buôn đặt chân đến Giao Châu truyền đạo, các Ngài đã dạy dân bản xứ biết thắp hương, lễ Phật, đọc lên những kệ tụng quy y theo điệu khúc được gọi là “Phạm bái”. Phạm là thanh tịnh, bái là tán tụng, ca vịnh. Dần dà những điệu khúc đó được chuyển dịch sang ngôn ngữ tiếng Việt mà người dân Việt quen gọi là “Kể hạnh”. Về sau này các vị Cao tăng như: Khương Tăng Hội (ở Giao Châu); Trúc Pháp Lan, Chi Khiêm, Cưu Ma La Thập (ở Lạc Dương) đã đưa những điệu khúc ca vịnh đó dung hợp vào những làn điệu dân gian để chuyển hóa thành những nét nhạc đặc trưng của từng vùng, từng miền và chính thức trở thành một nghi thức hành lễ của Phật giáo.
Như vậy, Phật giáo Việt Nam ở thời kỳ mới du nhập các vị Sư truyền giáo lấy âm nhạc nghi lễ làm phương tiện chính để truyền đạo. Điều này chúng ta có thể thấy được qua tín ngưỡng “Tứ pháp” của Phật giáo Việt Nam (ở lưu vực sông Hồng) vẫn còn tồn tại đến ngày nay.
* BỨC TRANH LỄ NHẠC PHẬT GIÁO VIỆT NAM NGÀY NAY
Am nhạc của Phật giáo Việt Nam ngày xưa đã đạt đến một trình độ thánh thiện, điều đó có thể tìm thấy qua những tư liệu của các vị Tổ để lại. Thế nhưng lễ nhạc của Phật giáo Việt Nam ngày nay về hình thức lẫn nội dung quả thật đã thua kém tiền nhân rất xa, nó không còn bộc lộ được nét sống tâm linh siêu việt như lễ nhạc cổ điển thuở trước. Vì lẽ tâm thức của Tăng sĩ trẻ ngày nay đã bị thế tục hóa, ngọai cảnh thì tác động quá nhiều, mà định lực thì non kém chưa vững chãi. Hơn nữa Hán văn không còn được chú trọng, nên đọc thì có đọc mà hiểu thì không được bao nhiêu. Như vậy, thì làm sao có thể thâm nhập chân lý ngay khi chúng ta xướng tụng . Chính vì thế mà vai trò của những người làm công tác nghi lễ ngày nay cần phải biết chuyển hóa như thế nào để vừa có thể duy trì lại truyền thống cao đẹp của Thầy Tổ xưa, vừa có thể khế hợp với căn cơ của quần chúng ngày nay.
Chúng tôi thiết nghĩ muốn thực hiện được ước vọng này, Giáo hội cần phải quan tâm nhiều hơn đến những người có kiến thức uyên thâm về lễ nhạc Phật giáo ở cả 3 miền Bắc – Trung – Nam và phải tạo điều kiện thuận lợi để sưu tầm, khai thác và phát huy cho bộ môn Nhạc lễ ngày nay trở lại đúng vị trí của nó đã từng có vị trí chủ đạo trong quá khứ.
Lễ nhạc cần phải được thiết lập một cách nghiêm chỉnh căn cứ trên truyền thống cũ. Những thang âm, điệu thức của Thiền gia phải được duy trì và sáng tạo. Việt hóa những văn bản chữ Hán để khế hợp với căn cơ người thời nay (những người không có trình độ Hán văn).
Còn về nhạc cụ có thể phương tiện dùng bằng những chất liệu ngày nay, kỷ thuật mới, phải có sự giao lưu giữa 3 miền, tạo điều kiện gặp gỡ thường xuyên giữa các nhà nghiên cứu có kiến thức uyên thâm, kinh nghiệm hành trì về lễ nhạc Phật giáo.
Giáo hội cần phải thành lập một trường chuyên đề về âm nhạc Phật giáo hoặc có thể đưa lễ nhạc Phật giáo thành một môn học chính thức tại các trường cơ bản Phật học để các Tăng Ni trẻ có điều kiện tiếp xúc, hầu có những tư tưởng và cái nhìn đúng đắn về vị trí lễ nhạc trong Phật giáo, đồng thời phải đào tạo một đội ngũ kế thừa truyền thống quý báu mà Thầy Tổ ta đã dày công xây dựng.
Những buổi lễ truyền thống Phật giáo như Tết Nguyên đán, Lễ Phật Đản, Lễ Vu Lan, các buổi lễ tưởng niệm quý Hòa Thượng hữu công trong Phật giáo… phải được sử dụng những nét nhạc cổ điển truyền thống, gạn lọc những nét nhạc ngọai lai, có nên chăng cử xướng dòng nhạc này nơi Điện Phật trong những buổi lễ truyền thống !!!
Nghi lễ Phật giáo nên phân chia thành hai lọai:
1/ Nghi Lễ truyền thống:
* Nghi lễ truyền thống thì sử dụng đúng những nét nhạc cổ điển của Phật giáo Việt Nam tùy theo từng miền.
2/ Nghi Lễ đại chúng:
* Nghi lễ đại chúng thì đơn giản hóa, phải thống nhất những văn bản Việt ngữ để mọi người dù Nam – Trung hay Bắc xướng tụng mà đại chúng vẫn họa theo được.
Ở đây cần lưu ý một điểm nhỏ là trong nghi lễ đại chúng cần phải biết uyển chuyển sao cho phù hợp với thời gian và không gian cho phép.
Thế nên tiêu chí của Giáo hội đề ra là thống nhất nghi lễ Phật giáo Việt Nam, theo chúng tôi thiết nghĩ là thống nhất những bản kinh, pháp ngữ, kệ tán để cả 3 miền cùng sử dụng chung một nghi thức, một văn bản, một tư liệu. Còn giọng điệu của từng địa phương phải giữ gìn đúng bản sắc để nét nhạc truyền thống của cả 3 miền không bị thất truyền, pha tạp.
Thống nhất nghi lễ Phật giáo Việt Nam là một vấn đề cấp thiết , không chỉ những người làm vai trò nghi lễ có trách nhiệm mà tất cả những ban ngành khác của Giáo hội đều phải phối hợp đồng đều, quan tâm hổ trợ để có cùng một cái nhìn nhất quán. Nghi lễ Phật giáo giống như Quốc ca của một dân tộc không thể để những người thiếu hiểu biết đánh giá sai lầm về nghi lễ.
KẾT LUẬN:
* LỄ NHẠC PHẬT GIÁO VIỆT NAM CŨNG CHÍNH LÀ VĂN HÓA CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM Ở MỌI THỜI ĐẠI.
Qua những thiển kiến trên, chúng tôi nghĩ rằng khi nói đến âm nhạc Phật giáo là nói đến văn hóa của Phật giáo, vì nó phản ảnh được đời sống an lạc, giải thoát của Tăng sĩ. Âm nhạc của Phật giáo Việt Nam có đủ tư cách để nói lên tinh thần thóat tục, siêu phàm, tùy duyên mà bất biến, bất biến mà tùy duyên. Đã đến lúc Tăng Ni trẻ Phật giáo Việt nam chúng ta phải bảo tồn những di sản cao quý của Thầy Tổ, chớ nên hời hợt, xem thường bảo vật của Cha ông, “đừng giống như một bác nông phu kém hiểu biết, sử dụng một cái thống cổ ra đựng lúa cho vịt ăn , trong khi đó những nhà bảo tồn di sản văn hóa thế giới đang ra sức tìm kiếm những cổ vật đó để lưu trữ và nghiên cứu tại các viện bảo tàng” (Trích – GS – Ts Trần Văn Khê).
Cuối cùng, xin trích dẫn một câu nói của cổ Đức: “Giá biên, na biên ứng dụng bất khuyết” (dù bên sự hay bên lý tất cả đều là phương tiện để dẫn dụ đưa con người đến với chánh đạo). Người học Phật phải tùy duyên mà ứng dụng, đừng có cái nhìn phiến diện, tự tôn, cố chấp để đánh mất những giá trị cao quý mà tiền nhân đã dày công xây dựng. Tôi nghĩ đây cũng chính là những ưu tư, thao thức của tất cả quý vị đang có mặt trong buổi hội thảo này ./.
Kính chúc Chúng hội luôn an lạc trong chánh pháp.
——————————–♦♦♦♦♦♦♦——————————–
THÍCH THỊ PHƯỚC
Từ đó, nguồn cội yêu thương hiếu đạo đã được khơi dậy một cách mạnh mẽ, nên rằm tháng bảy trở thành một lễ hội truyền thống tri ân cao quý của Phật giáo: Tết trung nguyên, rằm tháng bảy, địa quan xá tội, Mục liên cứu mẹ, lễ tự tứ,…Đây là ngày lễ truyền thống của đạo lý Việt Nam, dạy cho mọi người xóa bỏ hận thù, biết làm mới với tinh thần “Xá Tội – tha thứ những lỗi lầm”.
Con quỳ lạy Phật Thích Ca
Chứng minh đệ tử tên là Mục Liên
Lòng con mộ đạo tu hiền
Xuất gia theo Phật cầu nguyền hôm nay.
Nghe kinh Phật thuyết bảy ngày
Minh tâm kiến tánh như lai trọn lành
Lục thông đầy đủ nên danh
Muốn tìm Cha Mẹ lòng thành gắng công.
Đền ơn cho bú ẵm bồng
Liền dùng đạo nhãn xem liền thế gian
Thấy vong Mẹ khổ muôn vàn
Ốm gầy đói khát trong đàng quỷ ma.
Mục Liên kêu Mẹ khóc la
Đau lòng thương Mẹ đọa sa Diêm đình
Thanh Đề nhìn thấy con mình
Mục Liên cứu Mẹ hết tình gắng công.
Con ơi! Mẹ đói trong lòng
Mục Liên nghe nói khóc ròng thở than
Vội vàng trở lại thế gian
Bới cơm một bát đem sang Mẹ mừng.
Và cơm vô miệng nửa chừng
Chén cơm hóa lửa phừng phừng thành than
Mục Liên xem thấy kinh hoàng
Trong lòng đau đớn khóc than buồn tình.
Mẹ ơi! Niệm Phật độ mình
Trở về lạy phật cầu xin Mẹ già
Thích Ca Đức Phật phân qua
Mẹ ngươi tội nặng đọa ra nghiệp hành.
Ta truyền cứu tế pháp lành
Cần cầu Tăng chúng tịnh thanh chú nguyền
Cầu cho Phụ Mẫu hiện tiền
Lục thân quyến thuộc bình yên đều hòa.
Bảy đời Phụ Mẫu đã qua
Về Trời hưởng phước sáng lòa hào quang
Vui chơi thong thả thanh nhàn
Ngày rằm tháng Bảy lập đàn trai tăng.
Sắm cơm trăm món đồ ăn
Trái cây ngũ quả hương đăng rõ ràng
Chiếu, giường, bồn nước, mùng, màn
Dầu, đường, trà lá, bát vàng đựng cơm.
Những đồ vật quý bông thơm
Thành tâm dọn tiệc Lan Bồn phân minh
Cúng dường Tam Bảo cầu Kinh
Chư Tăng tịnh giới giữ gìn nghiêm trang.
Cầu cho Thí chủ Trai đàn
Tâm hành thiền định vái van chúc nguyền
Thanh Đề khổ ách hết liền
Ngày rằm tháng Bảy thành tiên về Trời.
Noi gương hiếu thảo đời đời,
Xót thương Phụ Mẫu hiện thời nuôi con.
Nhai cơm cho bú hao mòn
Ơn sâu nghĩa nặng thương con hết lòng.
Trời cao đất rộng mênh mông
Biển hồ lai láng sánh đồng Thái sơn
Tu hành báo tứ trọng ân
Độ đời ba cõi sạch trơn trọn lành.
Mục Liên đại hiếu tu hành
Báo ân Phụ Mẫu nên danh độ đời.
Câu chuyện của hai đóa hồng trong đêm trước ngày Vu Lan. Đó là Hồng Nhung đỏ Giảm và Hồng trắng tinh khôi.
Ngày lễ Vu La n người ta cài lên cánh mình đóa Hồng Nhung nếu họ may mắn còn có mẹ, người mất mẹ cài đóa Hồng trắng cho mình.
Đêm tháng 7 Âm lịch. Ngày trăng thứ 14 đủ tròn và sáng để chiếu lên vạn vật. Vườn hồng nằm dưới ánh trăng vàng dịu dàng. Tia sương của đêm đọng lại lá, lên những cánh hồng. Những đóa hồng tỏa mùi thơm khắp không gian về đêm. Chỉ còn đêm nay nữa thôi, sáng mai sớm hết những thứ đóa hồng này sẽ được ngắt, để người đời dùng chúng thay cho lời tri ân với mẹ! Ngày Lễ Vu Lan.
Hồng Trắng được trồng cạnh Hồng Nhung. Hồng Trắng say sưa tận hưởng cái lạnh của sương, uống lấy từng giọt sương để khiến mình có thể rực rỡ nhất vào ngày mai. Đóa Hồng Nhung nhìn bạn đang cố gắng hết sức có thể để tăng nhựa sống cho mình, Hồng Nhung rụt rè nói với bạn:
– Hồng Trắng ơi, mai là ngày lễ Vu lan rồi, cậu có buồn không?
– Tại sao lại buồn chứ?
Gương mặt Hồng Trắng vẫn tươi tắn lạ thường. Hồng Nhung khẽ khàng:
– Tớ không biết vì sao trong ngày lễ Vu lan con người lại dùng tớ, một loài hoa hồng mang màu đỏ để dành cho những người còn mẹ trên đời. Còn cậu – loài hoa hồng trắng luôn phải dành cho những người đã mất mẹ. Có khi nào cậu thấy buồn không?
– Không đâu, tớ không phải là đại diện cho sự bất hạnh của những người mất mẹ, tớ thay họ nói lên tình yêu vô bờ bến mà họ dành cho mẹ. Họ dùng tớ để thay lời cảm ơn và thể hiện lòng kính yêu với mẹ, ngay cả khi mẹ không còn trên thế gian này nữa. Được cài trước lồng ngực của những người mất mẹ, tớ nghe được tiếng thổn thức, một nỗi xót xa trào dâng qua từng nhịp đập của con tim.
- Nhưng những người còn mẹ sẽ vui vẻ hơn những người mất mẹ vì vậy nếu được chọn cài lên ngực những người còn mẹ sẽ hạnh phúc hơn rất nhiều phải không nào? Hồng Nhung gặng hỏi bạn.
- Tôi nghĩ đến tớ khi nằm trên thăng của người khác, những người may mắn còn mẹ sẽ hiểu họ cần phải làm gì xứng đáng với ân huệ mà cuộc đời còn dành cho họ. Họ cần phải có nhiều hơn để đến một ngày nào đó khi phải cài đặt lên vũ khí, họ không cảm thấy ân hận vì mình đã không làm một người tốt. Tôi hạnh phúc khi nói thay tình yêu của những người mất mẹ và nuôi dưỡng tới những người còn mẹ. Tôi đã làm giả sứ của tình nguyên tử quý giá.
Hồng Nhung nhìn Hồng ngưỡng ngưỡng. Cả hai yên lặng hút dưỡng dưỡng từ đất và uống sương đêm để mình đẹp hơn vào ngày mai.
(Diệu Bạch St)
◊-◊—————————————– ———————-◊-◊
NĂM THÁNG DẦN TRÔINĂM THÁNG DẦN TRÔI
Thích Thiện Phước
Cuộc đời là một hành trình luôn đưa ta về phía trước, không giậm chân tại chỗ, không lùi lại phía sau, từng bước chân trải dài ấy, luôn mang theo: Ước mơ thách thức, hạnh phúc niềm đau, nụ cười tiếng khóc, thất bại thành công, nhục vinh được mất,… có người đạt được đỉnh cao của sự nghiệp một cách mau chóng dễ dàng khi còn rất trẻ, có người lận đận mãi vẫn không thành, có người thì chưa lên đến đài vinh quang thì nhìn lại đã già, hơi tàn sức kiệt, rồi phải chống chọi chịu đựng với bệnh tật, như chờ đợi đến hồi kết thúc một chuyến đi xa…
Ai cũng có một thời vẫy vùng xông pha nơi chân trời góc biển, rồi cũng có lúc phải thu mình bình lặng chốn quê nhà, vui cùng cỏ nội mây ngàn, đếm từng giọt mưa rơi như dòng thời gian của đời người đang trút xuống… trở về sống cho mình, ngồi cắt móng tay, đếm từng hơi thở, soi gương nhìn mặt mình thật kỹ thật lâu, để thấy những nếp nhăn in đậm nét phong trần, thấy mây bay cuối tận chân trời mà lòng đầy xao xuyến, bỗng quên đi bao ký ức về cuộc đời thành bại nhục vinh, đã là lữ khách trần gian thì cái gì là của họ của ta, đến lúc an lòng nhìn lại buông xuôi muôn duyên để nhẹ lòng cho một chuyến đi về…“cô đơn không hẵn một mình, một mình không hẵn cô đơn”, chim hót, lá rơi, bầu trời đầy sao đêm…chỉ một mình ta nhưng ngập tràn hạnh phúc bao la.
Mờ sáng rừng thiền chưa dọi nắng
Đêm về hoa cỏ cũng lặng yên
Từng tiếng chim kêu bình minh dậy
Sương lờ bóng nguyệt giới hương bay.
Thật ra, đời người mau chóng lắm bạn, tất cả mọi chúng ta đều sẽ có ngày ly biệt và đến điểm dừng, đó là ngày mà mình rời xa thế giới nầy, ly biệt người thân thương, mọi thứ mà ta gắn bó trân quí yêu thích rồi cũng phải buông xuôi, ta không giữ mãi những gì mình có được, mất mát, đổi thay, tàn hoại…vì thế gian là vô thường, có một thứ không bao giờ thay đổi, đó là luôn luôn thay đổi, sống ở đời đôi lúc cũng phải tuỳ duyên, thay đổi chính mình cho phù hợp với thời đại hoàn cảnh, nếu ta không thay đổi thì sẽ bị thay thế và lùi về phía sau.
Nếu biết còn vài ngày, vài giờ, vài phút giây nữa để sống, thì bạn sẽ sống như thế nào, và làm gì cho khoảng thời gian còn lại của mình?… Ai nấy đều có nỗi khổ niềm đau, vì vậy cho dù hoàn cảnh nào, ta phải sống tràn ngập tình thương yêu: Bản thân, mọi người và muôn loài, khi tình thương đủ lớn thì cánh cửa khổ đau cũng dần khép lại, xin cho đi tình thương vô hạn bằng nhiều phương diện ở trong đời.
Lạy Phật mong sao cho con và mọi người mọi loài sống an lành tự tại, như cánh hạc tung bay giữa bầu trời cao rộng thênh thang, như những đám mây nhẹ nhàng phiêu bồng cao vút chốn thiên không, như dòng nước thì thầm len lõi xuyên qua mọi ngóc ngách của vũ trụ bao la, thong dong từng bước chân đi ngang cuộc đời một cách an toàn không vướng mắc, như làn gió thổi qua những cánh đồng hoa cỏ, mang theo hương thơm vi diệu lan tỏa khắp mọi chân trời.
Thời gian của kiếp người là một nguồn tài nguyên có giới hạn, không thể tái chế, mua bán, trao đổi, tiền bạc châu báu mất đi hôm nay, ngày mai có thể tìm được, còn thời gian trôi qua rồi, sẽ không bao giờ trở lại. Món quà vô giá này, tạo hóa đã ban cho chúng ta và muôn loài đồng đều như nhau. Mỗi ngày đêm có 24 giờ đồng hồ, nhưng chúng ta sử dụng vào việc gì, đó là chuyện cá nhân của từng người…
Đời người sống vài mươi năm, thật quá ngắn ngủi so với vòng luân hồi vô tận. Mỗi một hành nghiệp của chúng ta, dù tốt hay xấu, đều ẩn tàng lý nhân quả ở đó. Vì vậy, khi được làm thân người, bạn hãy tận dụng cơ hội hiếm có nầy, cố gắng sống nhân từ, đạo đức, chân chánh, trung nghĩa, thanh cao, liêm khiết,… trải lòng yêu thương giúp đỡ mọi người.
Cuộc đời, vốn dĩ có nhiều sự bất an đau khổ, ta nên sống sao cho có ý nghĩa, mang lại niềm vui cho mình và người. Ngày ngày tu nhân tích đức, sớm sớm tinh tấn công phu, cầu mong cho mọi người hết khổ, sống đời an vui hạnh phúc trong cõi phù du mộng ảo nầy.
Tuy nhiên, cuộc đời thật tươi đẹp cho những ai sống chân thật với nó: Và vẫn còn đâu đó những khoảng trời bình yên vô hạn, những đàn cò trắng bay lượn xa xa trên cánh đồng lúa bất tận giữa buổi chiều thu nhạt nắng, những khu rừng nguyên sinh xanh thẳm bao la, những dòng sông tĩnh lặng uốn khúc êm đềm, những chú ong dễ thương chăm chỉ hút mật, những đàn bướm bay chập chờn trong vườn hoa cỏ dại khi bình minh về còn đượm thấm sương đêm….thành trụ hoại không – thế gian vô thường, sanh già bệnh chết – thân người giả tạm, xuân hạ thu đông – năm tháng dần trôi, lá rụng về cội nước chảy ra khơi, an nhiên cho một chuyến đi về,…
Thong dong ở mọi phương trời
Mây bay gió thổi mong đời an yên.
Gót chân thoát tục tuỳ duyên
Lối về hoa cỏ thiên nhiên thanh nhàn.
Nha Mân, 03/2023.
Kinh Vu Lan – Thích Thiện Phước.