Thật thiếu sót khi bàn về lễ Vu lan bồn mà không nói tới tục thí giàn ở miền Tây Nam Bộ. Thí giàn là gì? Một số người cho rằng tục này là thí vàng tức thí vàng mã, nghĩa là khi cúng cô hồn người ta đốt giấy tiền vàng bạc cho các cô hồn hưởng dụng. Nói như vậy là quá lầm, mặc dù mới nghe qua thấy cũng có lý. Nhưng giàn đây là cái giàn bằng cây ván, dùng đặt đồ cúng thí trên đó để sau khi cúng xong, quần chúng bu quanh leo lên giành giựt và người đi giành giựt đồ cúng trên giàn đó gọi là đi giựt giàn.
Tục giựt giàn này năm mươi năm trước đây rất thịnh hành ở miền Tây Nam Bộ, nhất là các tỉnh có nhiều người Việt gốc Hoa sinh sống như Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng, Rạch Giá… và ngày nay chỉ còn là dư âm một thời.
Khi xưa, vào mùa Vu lan, các chùa lớn ở tỉnh Bạc Liêu như chùa Bang, chùa Cây Me, chùa Minh, chùa Ông Tề hay đình Tân Hưng đều tổ chức lễ thí giàn trong khoảng thời gian từ đầu đến cuối tháng Bảy chứ không nhất thiết phải đúng ngày rằm. Và để tiện việc điều tiết cho Ban kinh sư và để chọn ngày tốt theo tập quán mỗi chùa, các chùa mặc nhiên tổ chức lễ thí giàn xen kẽ các ngày khác nhau trong tháng Bảy nên dân giựt giàn thường không phải đắn đo nên giựt ở chùa nào, bỏ chùa nào.
Nhìn chung, cái giàn có hình tháp dưới lớn trên nhỏ với ba tầng sàn ván. Cái giàn này có thể coi là ngoại đàn của lễ Thủy Lục pháp hội. Trên mặt ván mỗi tầng người ta đều bày vật thí cúng, ở tầng càng cao thì lễ vật càng có giá trị. Ðại để, trên mặt sàn thứ nhất người ta đặt những giỏ lam, trong đó đựng mía chặt khúc, khoai lang sống, chuối sống, bánh cúng, bánh cấp (giỏ lam tức cái giỏ đan sơ sài bằng ruột tre). Tầng thứ hai ngoài giỏ lam, giỏ là (có thêm trái bưởi) còn có các bao cà-ròn nhỏ trong đó đựng chừng 5kg gạo hay muối mỗi bao và một số đụn cốm nhỏ, cao chừng nửa thước. Tầng thứ ba bày toàn vật thực có giá trị như bốn góc đài mỗi góc dựng ba cây mía chụm lại, từ đầu chụm ba ngọn mía người ta treo nguyên một cái đùi heo và la liệt trên mặt sàn là các đụn kẹo và đụn cốm mà toàn là đụn cổ, tức loại đụn lớn nhất, cao từ hai tới ba mét. Ðụn kẹo được bện bằng tre hình tháp nhọn, trên mặt tháp người ta đắp kẹo đậu phọng vào và trên đầu đụn có cắm một cây cờ đuôi nheo bằng giấy và các rua giấy màu sắc rực rỡ. Ðụn kẹo là món chủ yếu mà các tay giựt giàn quyết tâm giành cho được. Số kẹo trong mỗi đụn cổ gỡ ra có tới mấy chục kí lô, chia nhau cả xóm ăn không hết. Ngoài đụn kẹo còn có đụn cốm được đắp toàn cốm, đụn tiền gắn toàn bạc cắc hoặc đụn rau muống tuy chỉ gắn vài cọng rau muống nhưng kèm theo đó là mấy đồng bạc giấy, hoặc mươi ký thịt heo thái mỏng. Ðặc biệt trên tầng ba này có thiết một bàn thờ Phật với hai vị Hộ pháp và Tiêu Diện bằng giấy mà người bình dân gọi là ông Thiện, ông Ác. Ông Ác còn gọi là ông Tiêu với hình thù dữ tợn, mặt xanh, nanh vàng, trán mọc ba sừng, lưỡi le ra ngoài và chính cái lưỡi này mới là vật giá trị cần phải giựt cho được, vì theo tín ngưỡng dân gian, cái lưỡi ông Tiêu bằng giấy đặt trên đài này đem về cuốn lại làm bùa cho con nít đeo sẽ tránh được tà ma nên những người nhà giàu thường hay bỏ số tiền lớn để mua lại của người giựt được.
Lễ Thủy Lục theo nguyên tắc được tổ chức bảy ngày bảy đêm, nhưng thông thường người ta chỉ tổ chức ba ngày ba đêm, mỗi đêm ban kinh sư theo thang cây lên tụng kinh siêu độ cho cô hồn. Khoảng giờ ngọ ngày thứ tư là xả giàn, tức thúc trống ra hiệu cho người đi giựt giàn trèo lên để giành giựt lễ vật. Từ sáng sớm ngày thứ tư, dân giựt giàn đã bu quanh giàn cùng người xem hội đông như kiến cỏ. Bên trong hàng rào bằng dây luộc xung quanh bốn bên là lính phú-lit, mã-tà cầm roi luôn tay nẹt đánh, miệng không ngớt quát tháo để ngăn chặn đám đông không phá giàn, tức phá rào dây nhào vô giựt khi chưa tới giờ cho phép.
Thật ra người ta đi giựt giàn là vì sự háo hức chờ đợi giờ xông giàn, vì danh dự làng xóm mình ở, vì vui do lễ hội hơn là lợi lộc, bởi cái đụn kẹo giựt được đem về xóm chẳng bán cho ai bao giờ mà chỉ chia nhau trong xóm ăn lấy hên. Riêng đồng bào gốc Khmer thì tin rằng nếu năm nào giựt được nhiều đồ thì sẽ bình an, trúng mùa nên họ không nhắm vào các cái đụn mà chỉ mang theo bao để chứa gạo, muối, chuối, mía, khoai củ nhiều chừng nào hay chừng nấy. Còn mấy anh chị người Việt thì mục tiêu của họ là các cái đụn cổ to tổ bố kia. Ai có trực tiếp đi xem giựt giàn mới thấy hết cái sôi động của cảnh tuôn rào, leo giàn, giành đụn, chen lấn, dẫm đạp nhau, la thét.
Việc thí giàn tuy hào hứng cao độ, nhưng có nhiều nguy hiểm, như năm nọ giàn chùa Bang làm không chắc, bị sập gây tử vong mấy người, bị thương mấy chục, nên chính quyền Pháp lúc đó cấm không cho thí giàn nữa. Phần khác vì dựng giàn cũng quá tốn kém, nên từ đó về sau người ta thay đổi hình thức bằng cách đặt thí phẩm trên bãi đất trống cho giựt. Cách này tuy không gây ra cái nạn sập giàn chết người nhưng cũng không tránh được chuyện giằng co, chen lấn giẫm đạp, khiến một phần thí phẩm bị bầm giập hoặc rơi vãi tung tóe, nhất là muối, gạo. Ðể khắc phục tình trạng trên, có người nghĩ ra cách thí thẻ, tức ghi số thứ tự trên thí phẩm rồi dùng thẻ tre có khắc số thứ tự quăng ra cho người ta giựt rồi trình thẻ mà lãnh thí phẩm. Cách này có cái hay là tránh được cảnh giằng co bịch gạo, bao muối hoặc giựt nguội vì cây thẻ một khi nằm trong tay ai là ít bị giựt lại nhưng phải cái thiếu công bình vì người quăng thẻ có thể quăng về phía người mình quen biết hoặc các thẻ đặc biệt bị giữ lại, nhất là thiếu phong thái vui nhộn sôi động giành giựt thí phẩm của các cô hồn sống.
Còn tư gia của nhân dân thì tổ chức lễ thí giàn như thế nào? Theo tín ngưỡng lâu đời mà chúng tôi cho là rất nhân đạo, rất từ bi thì mỗi năm mười địa ngục mở cửa một lần từ ngày mùng một cho tới ba mươi tháng Bảy để cho ma đói dưới âm ty cùng các cô hồn vất vưởng không nơi nương tựa lên dương thế kiếm ăn. Thức ăn của họ là do nhân dân thí cúng. Do đó hầu như nhà nào cũng cúng cô hồn vào bất cứ một ngày nào thuận tiện trong tháng Bảy, tuy nhiên phần đông người ta hay chọn ngày rằm hoặc chiều ba mươi. Thật ra, nói mỗi nhà “Thí giàn” là không đúng, vì đâu phải nhà nào cũng có khả năng dựng giàn. Người ta chỉ bày vật thí cúng dưới sân hay trên hàng ba và chỉ đơn giản giỏ lam, giỏ là, và bánh cúng bánh cấp mà đối tượng giựt giàn cũng chỉ là lũ trẻ con trong xóm, nhưng phong khí các ngày thí giàn cũng thật vui nhộn, trẻ con tụ tập giựt giàn hết nhà này sang nhà nọ. Có thể nói từ “Giựt giàn” đã biến nghĩa và nhân dân dùng quen chỉ lễ thí cô hồn. Ðại khái lễ cúng cô hồn tại tư gia diễn tiến như sau: khoảng bốn năm giờ chiều, tùy gia cảnh mỗi người, số lượng thí vật có thể nhiều ít, nhưng chủ yếu vẫn là các giỏ lam, giỏ là đựng ổi, mía khúc, khoai lang sống, chuối sống, bánh cấp bánh cúng, muối gạo, trầu cau, tiền cắc, giấy tiền vàng bạc. Ở mỗi giỏ lam, giỏ là, người ta cắm một cây nhang vào thân trái chuối hoặc củ khoai. Tất cả các thứ này đều được bày dưới đất trước sân nhà và dĩ nhiên là không có kinh sư tụng niệm mà gia chủ tự đốt nhang khấn vái lấy. Lời khấn thường là: Xin cô hồn các đẳng (mà người bình dân thường nói nhầm là “các đảng”) bơ vơ không nơi nương tựa, hữu sinh vô dưỡng, sinh non chết dại, chết bờ chết bụi, chết đâm chết chém, đạn lạc tên bay, xe cán cây đè, rắn mổ rít cắn, thần vòng thắt cổ, một lỗ năm bảy thây, hãy về đây hưởng dụng cơm lành canh ngọt, bánh trái của tiền, áo quần xe cộ, phù hộ gia chủ quanh năm làm ăn phát tài, tai qua nạn khỏi v.v… Tàn nhang, chủ nhà dọn vô những món cúng quý như bánh trái mắc tiền, rồi đốt vàng mã, rải muối gạo, sau đó ra hiệu cho bọn trẻ nít bu quanh nhào vô giựt. Trong cuộc giành giựt cũng có đánh lộn nhưng nhỏ thôi vì chúng còn bận để giựt đám cúng nhà khác vừa bày ra.
Nếp văn hóa dân dã ngày xưa, mỗi khi nhớ tới cũng ngậm ngùi!
(Lý Việt Dũng)
◊-◊————————————————————————————◊-◊
THÍCH THỊ PHƯỚC
Từ đó, nguồn cội yêu thương hiếu đạo đã được khơi dậy một cách mạnh mẽ, nên rằm tháng bảy trở thành một lễ hội truyền thống tri ân cao quý của Phật giáo: Tết trung nguyên, rằm tháng bảy, địa quan xá tội, Mục liên cứu mẹ, lễ tự tứ,…Đây là ngày lễ truyền thống của đạo lý Việt Nam, dạy cho mọi người xóa bỏ hận thù, biết làm mới với tinh thần “Xá Tội – tha thứ những lỗi lầm”.
Con quỳ lạy Phật Thích Ca
Chứng minh đệ tử tên là Mục Liên
Lòng con mộ đạo tu hiền
Xuất gia theo Phật cầu nguyền hôm nay.
Nghe kinh Phật thuyết bảy ngày
Minh tâm kiến tánh như lai trọn lành
Lục thông đầy đủ nên danh
Muốn tìm Cha Mẹ lòng thành gắng công.
Đền ơn cho bú ẵm bồng
Liền dùng đạo nhãn xem liền thế gian
Thấy vong Mẹ khổ muôn vàn
Ốm gầy đói khát trong đàng quỷ ma.
Mục Liên kêu Mẹ khóc la
Đau lòng thương Mẹ đọa sa Diêm đình
Thanh Đề nhìn thấy con mình
Mục Liên cứu Mẹ hết tình gắng công.
Con ơi! Mẹ đói trong lòng
Mục Liên nghe nói khóc ròng thở than
Vội vàng trở lại thế gian
Bới cơm một bát đem sang Mẹ mừng.
Và cơm vô miệng nửa chừng
Chén cơm hóa lửa phừng phừng thành than
Mục Liên xem thấy kinh hoàng
Trong lòng đau đớn khóc than buồn tình.
Mẹ ơi! Niệm Phật độ mình
Trở về lạy phật cầu xin Mẹ già
Thích Ca Đức Phật phân qua
Mẹ ngươi tội nặng đọa ra nghiệp hành.
Ta truyền cứu tế pháp lành
Cần cầu Tăng chúng tịnh thanh chú nguyền
Cầu cho Phụ Mẫu hiện tiền
Lục thân quyến thuộc bình yên đều hòa.
Bảy đời Phụ Mẫu đã qua
Về Trời hưởng phước sáng lòa hào quang
Vui chơi thong thả thanh nhàn
Ngày rằm tháng Bảy lập đàn trai tăng.
Sắm cơm trăm món đồ ăn
Trái cây ngũ quả hương đăng rõ ràng
Chiếu, giường, bồn nước, mùng, màn
Dầu, đường, trà lá, bát vàng đựng cơm.
Những đồ vật quý bông thơm
Thành tâm dọn tiệc Lan Bồn phân minh
Cúng dường Tam Bảo cầu Kinh
Chư Tăng tịnh giới giữ gìn nghiêm trang.
Cầu cho Thí chủ Trai đàn
Tâm hành thiền định vái van chúc nguyền
Thanh Đề khổ ách hết liền
Ngày rằm tháng Bảy thành tiên về Trời.
Noi gương hiếu thảo đời đời,
Xót thương Phụ Mẫu hiện thời nuôi con.
Nhai cơm cho bú hao mòn
Ơn sâu nghĩa nặng thương con hết lòng.
Trời cao đất rộng mênh mông
Biển hồ lai láng sánh đồng Thái sơn
Tu hành báo tứ trọng ân
Độ đời ba cõi sạch trơn trọn lành.
Mục Liên đại hiếu tu hành
Báo ân Phụ Mẫu nên danh độ đời.
Câu chuyện của hai đóa hồng trong đêm trước ngày Vu Lan. Đó là Hồng Nhung đỏ Giảm và Hồng trắng tinh khôi.
Ngày lễ Vu La n người ta cài lên cánh mình đóa Hồng Nhung nếu họ may mắn còn có mẹ, người mất mẹ cài đóa Hồng trắng cho mình.
Đêm tháng 7 Âm lịch. Ngày trăng thứ 14 đủ tròn và sáng để chiếu lên vạn vật. Vườn hồng nằm dưới ánh trăng vàng dịu dàng. Tia sương của đêm đọng lại lá, lên những cánh hồng. Những đóa hồng tỏa mùi thơm khắp không gian về đêm. Chỉ còn đêm nay nữa thôi, sáng mai sớm hết những thứ đóa hồng này sẽ được ngắt, để người đời dùng chúng thay cho lời tri ân với mẹ! Ngày Lễ Vu Lan.
Hồng Trắng được trồng cạnh Hồng Nhung. Hồng Trắng say sưa tận hưởng cái lạnh của sương, uống lấy từng giọt sương để khiến mình có thể rực rỡ nhất vào ngày mai. Đóa Hồng Nhung nhìn bạn đang cố gắng hết sức có thể để tăng nhựa sống cho mình, Hồng Nhung rụt rè nói với bạn:
– Hồng Trắng ơi, mai là ngày lễ Vu lan rồi, cậu có buồn không?
– Tại sao lại buồn chứ?
Gương mặt Hồng Trắng vẫn tươi tắn lạ thường. Hồng Nhung khẽ khàng:
– Tớ không biết vì sao trong ngày lễ Vu lan con người lại dùng tớ, một loài hoa hồng mang màu đỏ để dành cho những người còn mẹ trên đời. Còn cậu – loài hoa hồng trắng luôn phải dành cho những người đã mất mẹ. Có khi nào cậu thấy buồn không?
– Không đâu, tớ không phải là đại diện cho sự bất hạnh của những người mất mẹ, tớ thay họ nói lên tình yêu vô bờ bến mà họ dành cho mẹ. Họ dùng tớ để thay lời cảm ơn và thể hiện lòng kính yêu với mẹ, ngay cả khi mẹ không còn trên thế gian này nữa. Được cài trước lồng ngực của những người mất mẹ, tớ nghe được tiếng thổn thức, một nỗi xót xa trào dâng qua từng nhịp đập của con tim.
- Nhưng những người còn mẹ sẽ vui vẻ hơn những người mất mẹ vì vậy nếu được chọn cài lên ngực những người còn mẹ sẽ hạnh phúc hơn rất nhiều phải không nào? Hồng Nhung gặng hỏi bạn.
- Tôi nghĩ đến tớ khi nằm trên thăng của người khác, những người may mắn còn mẹ sẽ hiểu họ cần phải làm gì xứng đáng với ân huệ mà cuộc đời còn dành cho họ. Họ cần phải có nhiều hơn để đến một ngày nào đó khi phải cài đặt lên vũ khí, họ không cảm thấy ân hận vì mình đã không làm một người tốt. Tôi hạnh phúc khi nói thay tình yêu của những người mất mẹ và nuôi dưỡng tới những người còn mẹ. Tôi đã làm giả sứ của tình nguyên tử quý giá.
Hồng Nhung nhìn Hồng ngưỡng ngưỡng. Cả hai yên lặng hút dưỡng dưỡng từ đất và uống sương đêm để mình đẹp hơn vào ngày mai.
(Diệu Bạch St)
◊-◊—————————————– ———————-◊-◊
NĂM THÁNG DẦN TRÔINĂM THÁNG DẦN TRÔI
Thích Thiện Phước
Cuộc đời là một hành trình luôn đưa ta về phía trước, không giậm chân tại chỗ, không lùi lại phía sau, từng bước chân trải dài ấy, luôn mang theo: Ước mơ thách thức, hạnh phúc niềm đau, nụ cười tiếng khóc, thất bại thành công, nhục vinh được mất,… có người đạt được đỉnh cao của sự nghiệp một cách mau chóng dễ dàng khi còn rất trẻ, có người lận đận mãi vẫn không thành, có người thì chưa lên đến đài vinh quang thì nhìn lại đã già, hơi tàn sức kiệt, rồi phải chống chọi chịu đựng với bệnh tật, như chờ đợi đến hồi kết thúc một chuyến đi xa…
Ai cũng có một thời vẫy vùng xông pha nơi chân trời góc biển, rồi cũng có lúc phải thu mình bình lặng chốn quê nhà, vui cùng cỏ nội mây ngàn, đếm từng giọt mưa rơi như dòng thời gian của đời người đang trút xuống… trở về sống cho mình, ngồi cắt móng tay, đếm từng hơi thở, soi gương nhìn mặt mình thật kỹ thật lâu, để thấy những nếp nhăn in đậm nét phong trần, thấy mây bay cuối tận chân trời mà lòng đầy xao xuyến, bỗng quên đi bao ký ức về cuộc đời thành bại nhục vinh, đã là lữ khách trần gian thì cái gì là của họ của ta, đến lúc an lòng nhìn lại buông xuôi muôn duyên để nhẹ lòng cho một chuyến đi về…“cô đơn không hẵn một mình, một mình không hẵn cô đơn”, chim hót, lá rơi, bầu trời đầy sao đêm…chỉ một mình ta nhưng ngập tràn hạnh phúc bao la.
Mờ sáng rừng thiền chưa dọi nắng
Đêm về hoa cỏ cũng lặng yên
Từng tiếng chim kêu bình minh dậy
Sương lờ bóng nguyệt giới hương bay.
Thật ra, đời người mau chóng lắm bạn, tất cả mọi chúng ta đều sẽ có ngày ly biệt và đến điểm dừng, đó là ngày mà mình rời xa thế giới nầy, ly biệt người thân thương, mọi thứ mà ta gắn bó trân quí yêu thích rồi cũng phải buông xuôi, ta không giữ mãi những gì mình có được, mất mát, đổi thay, tàn hoại…vì thế gian là vô thường, có một thứ không bao giờ thay đổi, đó là luôn luôn thay đổi, sống ở đời đôi lúc cũng phải tuỳ duyên, thay đổi chính mình cho phù hợp với thời đại hoàn cảnh, nếu ta không thay đổi thì sẽ bị thay thế và lùi về phía sau.
Nếu biết còn vài ngày, vài giờ, vài phút giây nữa để sống, thì bạn sẽ sống như thế nào, và làm gì cho khoảng thời gian còn lại của mình?… Ai nấy đều có nỗi khổ niềm đau, vì vậy cho dù hoàn cảnh nào, ta phải sống tràn ngập tình thương yêu: Bản thân, mọi người và muôn loài, khi tình thương đủ lớn thì cánh cửa khổ đau cũng dần khép lại, xin cho đi tình thương vô hạn bằng nhiều phương diện ở trong đời.
Lạy Phật mong sao cho con và mọi người mọi loài sống an lành tự tại, như cánh hạc tung bay giữa bầu trời cao rộng thênh thang, như những đám mây nhẹ nhàng phiêu bồng cao vút chốn thiên không, như dòng nước thì thầm len lõi xuyên qua mọi ngóc ngách của vũ trụ bao la, thong dong từng bước chân đi ngang cuộc đời một cách an toàn không vướng mắc, như làn gió thổi qua những cánh đồng hoa cỏ, mang theo hương thơm vi diệu lan tỏa khắp mọi chân trời.
Thời gian của kiếp người là một nguồn tài nguyên có giới hạn, không thể tái chế, mua bán, trao đổi, tiền bạc châu báu mất đi hôm nay, ngày mai có thể tìm được, còn thời gian trôi qua rồi, sẽ không bao giờ trở lại. Món quà vô giá này, tạo hóa đã ban cho chúng ta và muôn loài đồng đều như nhau. Mỗi ngày đêm có 24 giờ đồng hồ, nhưng chúng ta sử dụng vào việc gì, đó là chuyện cá nhân của từng người…
Đời người sống vài mươi năm, thật quá ngắn ngủi so với vòng luân hồi vô tận. Mỗi một hành nghiệp của chúng ta, dù tốt hay xấu, đều ẩn tàng lý nhân quả ở đó. Vì vậy, khi được làm thân người, bạn hãy tận dụng cơ hội hiếm có nầy, cố gắng sống nhân từ, đạo đức, chân chánh, trung nghĩa, thanh cao, liêm khiết,… trải lòng yêu thương giúp đỡ mọi người.
Cuộc đời, vốn dĩ có nhiều sự bất an đau khổ, ta nên sống sao cho có ý nghĩa, mang lại niềm vui cho mình và người. Ngày ngày tu nhân tích đức, sớm sớm tinh tấn công phu, cầu mong cho mọi người hết khổ, sống đời an vui hạnh phúc trong cõi phù du mộng ảo nầy.
Tuy nhiên, cuộc đời thật tươi đẹp cho những ai sống chân thật với nó: Và vẫn còn đâu đó những khoảng trời bình yên vô hạn, những đàn cò trắng bay lượn xa xa trên cánh đồng lúa bất tận giữa buổi chiều thu nhạt nắng, những khu rừng nguyên sinh xanh thẳm bao la, những dòng sông tĩnh lặng uốn khúc êm đềm, những chú ong dễ thương chăm chỉ hút mật, những đàn bướm bay chập chờn trong vườn hoa cỏ dại khi bình minh về còn đượm thấm sương đêm….thành trụ hoại không – thế gian vô thường, sanh già bệnh chết – thân người giả tạm, xuân hạ thu đông – năm tháng dần trôi, lá rụng về cội nước chảy ra khơi, an nhiên cho một chuyến đi về,…
Thong dong ở mọi phương trời
Mây bay gió thổi mong đời an yên.
Gót chân thoát tục tuỳ duyên
Lối về hoa cỏ thiên nhiên thanh nhàn.
Nha Mân, 03/2023.
Kinh Vu Lan – Thích Thiện Phước.