“Địa ngục chưa trống thề không thành Phật, chúng sanh độ hết mới chứng Bồ đề”. Đây là lời thệ nguyện rộng lớn của Bồ tát Địa Tạng.
Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện chép: “Bồ tát Địa Tạng từ khi phát tâm tu hành đến nay đã trải qua vô lượng kiếp, công đức trí tuệ tương đồng với Phật, vốn ra Ngài đã thành Phật từ lâu, nhưng vì Ngài phát lời đại nguyện, nếu như chúng sanh ở trong 6 đường chưa hết thì thề không thành Phật”.
Theo Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo Kinh, quyển Thượng chép: “Bồ tát Địa Tạng do vì lời bi nguyện rộng lớn ở đời quá khứ, đã thị hiện thân Đại Phạm Vương, thân Đế Thích, thân Thanh Văn, thân Diêm La Vương, cư sĩ, voi, cọp, sói, trâu, ngựa,… cho đến thân La Sát, thân ở địa ngục,… vô lượng vô số thân hình nhằm để giáo hóa chúng sanh, đặc biệt là thương xót chúng sanh trong đời ác năm trược, ứng theo lời chúng sanh mong cầu mà tiêu tai tăng phước, để thành thục căn lành cho chúng sanh, Bồ tát Địa Tạng thường biến hiện ra vô số thân để cứu độ chúng sanh như thế, cho nên gọi là một ngàn thân thể Địa Tạng. Bồ tát Địa Tạng dùng sức bi nguyện cứu độ tất cả chúng sanh, đặc biệt là thương xót chúng sanh đang chịu khổ trong cõi địa ngục mà thị hiện thân Diêm La Vương, thân địa ngục,… rộng vì khắp tất cả chúng sanh đang chịu khổ mà nói pháp giáo hóa cứu độ”.
Nhân thế mà thông thường cho rằng Diêm La Vương là do Bồ tát Địa Tạng hóa thân.
Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện chép: “Bồ tát Địa Tạng nhận lời phó chúc của Phật Thích Ca, trong khoảng thời gian sau khi Phật Thích Ca nhập diệt đến lúc Phật Di Lặc ra đời, trong thời gian không có Phật nầy, Bồ tát Địa Tạng lưu lại trong nhơn gian để cứu độ giáo hóa những chúng sanh đang chìm đắm trong địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, A Tu La, người, trời,… khi độ hết chúng sanh thì Ngài mới thành Phật”.
Sự tích của Bồ tát Địa Tạng, trong Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện đã nói rõ:
1/ Bồ tát Địa Tạng từ kiếp lâu xa về trước là một vị Trưởng giả, nhân vì gặp Đức Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai tướng hảo trang nghiêm sanh lòng kính ngưỡng, vì muốn chứng được thân tướng trang nghiêm nầy nên phát nguyện tột đến đời vị lai, độ hết tất cả tội khổ chúng sanh.
2/ Bồ tát Địa Tạng không thể nghĩ bàn A Tăng Kỳ Kiếp về đời quá khứ làm Bà La Môn nữ, mẹ là Duyệt Đế Lợi, không kính tin ngôi Tam bảo, tu theo tà đạo, sau khi chết bị đọa vào địa ngục chịu khổ, vì muốn cứu mẹ ra khỏi địa ngục, người nữ nầy bèn bán nhà cửa mua hoa hương phẩm vật, cúng dường chùa tháp, phát nguyện tột đến đời vị lai rộng độ tất cả chúng sanh.
3/ Bồ tát Địa Tạng vô lượng kiếp vào đời quá khứ làm một vị Quốc vương, người dân trong nước tạo nhiều tội nghiệp, nhân vì vị Quốc vương phát nguyện độ hết tội khổ của chúng sanh, đều chứng quả Bồ đề, nếu không thì thề sẽ không thành Phật.
4/ Bồ tát Địa Tạng vô lượng kiếp về đời quá khứ làm một người nữ có hiếu, tên là Quang Mục, mẹ của nàng lúc còn sống thích ăn thịt loài cá, phạm tội sát sanh rất nặng. Nàng Quang mục biết mẹ sau khi chết chắc chắn sẽ đọa ác đạo, bèn thỉnh A La Hán nhập định quán sát, quả nhiên bà mẹ ở trong địa ngục chịu khổ nạn. Nàng Quang mục vì cứu độ mẫu thân mà phát nguyện cứu vớt tất cả chúng sanh, lìa khổ được vui, đều được thành Phật thì mới thành chánh giác.
Trên đây miêu tả về công đức và hạnh nguyện rộng lớn của ngài Địa Tạng Bồ tát, thể hiện tinh thần thương xót phát ra lời thệ nguyện để cứu độ chúng sanh. Tinh thần đạo hiếu của Bồ tát Địa Tạng rất phù hợp với đạo đức truyền thống của xã hội Trung Quốc, nhân thế mà được số đông kính ngưỡng, trải qua thời gian lâu dài mà không suy kém, đặc biệt là đạo tràng núi Cửu Hoa, tín chúng rất đông, hương hoa hưng thạnh.
Hình tượng Bồ tát Địa Tạng có nhiều loại, từ đời Đường trở về trước, hình tượng đa phần là hình vị Bồ tát đầu đội mão đeo anh lạc. Nhưng sau đời Đường thì hình tượng Bồ tát Địa Tạng dùng Kim Địa Tạng làm tiêu chuẩn, biến thành hình tượng vị Tỳ kheo, thân đắp ca sa, tay trái cầm bảo châu, tay phải cầm tích trượng, hoặc ngồi trên hoa sen, mỗi chùa viện đều có điện đường cung phụng Địa Tạng Bồ tát.
Vào ngày 30 tháng 7 Âm lịch là ngày Thánh đản đức Địa Tạng Bồ tát, có liên quan đến đức Kim Địa Tạng ở núi Cửu Hoa. Tương truyền, Kim Địa Tạng là một Vương tử của nước Tân La trên bán đảo Triều Tiên, tên là Kim Kiều Giác, bản tánh thông minh. Vào năm Vĩnh Huy thứ 4 (653) đời Đường, lúc ấy Ngài 24 tuổi, xuất gia làm Tăng, đi thuyền vượt biển đến Trung Quốc, dốc lòng tu hành. Trước hết chọn một hang đá ở bên sườn núi phía Đông, suốt ngày ngồi thiền đọc kinh. Sau người ở núi biết được, từ đó cảm động phụng thờ.
Sau nầy truyền thừa câu chuyện rằng: “Có người chủ núi họ Mẫn, phát tâm xây dựng chùa, lập đạo tràng. Sau khi Kim Kiều Giác qua đời để ngồi ở trong khám, bèn mới cho là Địa Tạng Vương. Trải qua 3 năm, mở khám ra xem, dung mạo như còn sống, mọi người lấy làm lạ, bèn lấy vàng tô phết lại phụng thờ, vì thế gọi là Kim Địa Tạng. Nhân vì khi còn sống Ngài dốc lòng tin Địa Tạng Bồ tát, lại có tướng tốt dung mạo y như Bồ tát Địa Tạng, nên mọi người cho là Bồ tát Địa Tạng hóa thân”.
Núi Cửu Hoa được cho là đạo tràng của Bồ tát Địa Tạng, từ đó mà tín ngưỡng Bồ tát Địa Tạng mau chóng lan truyền khắp dân gian. Mỗi năm vào ngày 30 (tháng thiếu 29) tháng 7 Âm lịch là ngày Thánh Đản đức Địa Tạng Bồ tát. Chùa chiền ngày nầy đều cử hành hoạt động Phật sự, Tăng chúng phải tụng “Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh”, đặc biệt là cử hành Pháp hội tại núi Cửu Hoa, chính là đạo tràng của Bồ tát Địa Tạng, suốt 7 ngày (từ ngày 30 tháng 7 đến ngày mùng 6 tháng 8). Người ở khắp mọi nơi đến núi Cửu Hoa tụng kinh, niệm Phật, ăn chay, trì chú, thiết trai cúng dường, rộng kết duyên lành.
Trong Kinh Phật dạy: “Dốc lòng niệm tụng Bồ tát Địa Tạng hoặc lễ bái cúng dường hình tượng của Bồ tát Địa Tạng thì xa lìa khổ não, không đọa ác đạo, thành tựu được 28 điều lợi ích:
1. Trời rồng hộ niệm.
2. Quả lành ngày thêm lớn
3. Chứa góp nhân vô lượng
4. Không lui sụt đạo giác ngộ
5. Áo cơm đầy đủ
6. Không bị bệnh dịch
7. Khỏi nạn lửa nước
8. Không có giặc hại
9. Người thấy cung kính
10. Quỉ thần hộ trì
11. Chuyển nữ thành nam
12. Làm con gái bậc vương thần
13. Tướng tốt đẹp đẽ
14. Sanh về cõi trời
15. Làm bậc đế vương
16. Biết rõ đời trước
17. Cầu nguyện thành tựu
18. Quyến thuộc an vui
19. Tiêu sạch hoạnh tử
20. Nghiệp ác không còn
21. Chỗ đến thông suốt
22. Đêm mộng điềm lành
23. Tiên vong hết khổ
24. Phước báu đầy đủ
25. Các thánh khen ngợi
26. Thông minh lanh lợi
27. Giàu lòng thương xót
28. Rốt ráo thành Phật”.
Bồ tát Địa Tạng “không vì cầu an lạc cho mình, chỉ nguyện cho chúng sanh được lìa khổ”. Với tinh thần đại nguyện, cống hiến, từ bi, chúng ta cần phải tôn kính học tập theo.
◊-◊——————————————————————–◊-◊
THÍCH THỊ PHƯỚC
Từ đó, nguồn cội yêu thương hiếu đạo đã được khơi dậy một cách mạnh mẽ, nên rằm tháng bảy trở thành một lễ hội truyền thống tri ân cao quý của Phật giáo: Tết trung nguyên, rằm tháng bảy, địa quan xá tội, Mục liên cứu mẹ, lễ tự tứ,…Đây là ngày lễ truyền thống của đạo lý Việt Nam, dạy cho mọi người xóa bỏ hận thù, biết làm mới với tinh thần “Xá Tội – tha thứ những lỗi lầm”.
Con quỳ lạy Phật Thích Ca
Chứng minh đệ tử tên là Mục Liên
Lòng con mộ đạo tu hiền
Xuất gia theo Phật cầu nguyền hôm nay.
Nghe kinh Phật thuyết bảy ngày
Minh tâm kiến tánh như lai trọn lành
Lục thông đầy đủ nên danh
Muốn tìm Cha Mẹ lòng thành gắng công.
Đền ơn cho bú ẵm bồng
Liền dùng đạo nhãn xem liền thế gian
Thấy vong Mẹ khổ muôn vàn
Ốm gầy đói khát trong đàng quỷ ma.
Mục Liên kêu Mẹ khóc la
Đau lòng thương Mẹ đọa sa Diêm đình
Thanh Đề nhìn thấy con mình
Mục Liên cứu Mẹ hết tình gắng công.
Con ơi! Mẹ đói trong lòng
Mục Liên nghe nói khóc ròng thở than
Vội vàng trở lại thế gian
Bới cơm một bát đem sang Mẹ mừng.
Và cơm vô miệng nửa chừng
Chén cơm hóa lửa phừng phừng thành than
Mục Liên xem thấy kinh hoàng
Trong lòng đau đớn khóc than buồn tình.
Mẹ ơi! Niệm Phật độ mình
Trở về lạy phật cầu xin Mẹ già
Thích Ca Đức Phật phân qua
Mẹ ngươi tội nặng đọa ra nghiệp hành.
Ta truyền cứu tế pháp lành
Cần cầu Tăng chúng tịnh thanh chú nguyền
Cầu cho Phụ Mẫu hiện tiền
Lục thân quyến thuộc bình yên đều hòa.
Bảy đời Phụ Mẫu đã qua
Về Trời hưởng phước sáng lòa hào quang
Vui chơi thong thả thanh nhàn
Ngày rằm tháng Bảy lập đàn trai tăng.
Sắm cơm trăm món đồ ăn
Trái cây ngũ quả hương đăng rõ ràng
Chiếu, giường, bồn nước, mùng, màn
Dầu, đường, trà lá, bát vàng đựng cơm.
Những đồ vật quý bông thơm
Thành tâm dọn tiệc Lan Bồn phân minh
Cúng dường Tam Bảo cầu Kinh
Chư Tăng tịnh giới giữ gìn nghiêm trang.
Cầu cho Thí chủ Trai đàn
Tâm hành thiền định vái van chúc nguyền
Thanh Đề khổ ách hết liền
Ngày rằm tháng Bảy thành tiên về Trời.
Noi gương hiếu thảo đời đời,
Xót thương Phụ Mẫu hiện thời nuôi con.
Nhai cơm cho bú hao mòn
Ơn sâu nghĩa nặng thương con hết lòng.
Trời cao đất rộng mênh mông
Biển hồ lai láng sánh đồng Thái sơn
Tu hành báo tứ trọng ân
Độ đời ba cõi sạch trơn trọn lành.
Mục Liên đại hiếu tu hành
Báo ân Phụ Mẫu nên danh độ đời.
Câu chuyện của hai đóa hồng trong đêm trước ngày Vu Lan. Đó là Hồng Nhung đỏ Giảm và Hồng trắng tinh khôi.
Ngày lễ Vu La n người ta cài lên cánh mình đóa Hồng Nhung nếu họ may mắn còn có mẹ, người mất mẹ cài đóa Hồng trắng cho mình.
Đêm tháng 7 Âm lịch. Ngày trăng thứ 14 đủ tròn và sáng để chiếu lên vạn vật. Vườn hồng nằm dưới ánh trăng vàng dịu dàng. Tia sương của đêm đọng lại lá, lên những cánh hồng. Những đóa hồng tỏa mùi thơm khắp không gian về đêm. Chỉ còn đêm nay nữa thôi, sáng mai sớm hết những thứ đóa hồng này sẽ được ngắt, để người đời dùng chúng thay cho lời tri ân với mẹ! Ngày Lễ Vu Lan.
Hồng Trắng được trồng cạnh Hồng Nhung. Hồng Trắng say sưa tận hưởng cái lạnh của sương, uống lấy từng giọt sương để khiến mình có thể rực rỡ nhất vào ngày mai. Đóa Hồng Nhung nhìn bạn đang cố gắng hết sức có thể để tăng nhựa sống cho mình, Hồng Nhung rụt rè nói với bạn:
– Hồng Trắng ơi, mai là ngày lễ Vu lan rồi, cậu có buồn không?
– Tại sao lại buồn chứ?
Gương mặt Hồng Trắng vẫn tươi tắn lạ thường. Hồng Nhung khẽ khàng:
– Tớ không biết vì sao trong ngày lễ Vu lan con người lại dùng tớ, một loài hoa hồng mang màu đỏ để dành cho những người còn mẹ trên đời. Còn cậu – loài hoa hồng trắng luôn phải dành cho những người đã mất mẹ. Có khi nào cậu thấy buồn không?
– Không đâu, tớ không phải là đại diện cho sự bất hạnh của những người mất mẹ, tớ thay họ nói lên tình yêu vô bờ bến mà họ dành cho mẹ. Họ dùng tớ để thay lời cảm ơn và thể hiện lòng kính yêu với mẹ, ngay cả khi mẹ không còn trên thế gian này nữa. Được cài trước lồng ngực của những người mất mẹ, tớ nghe được tiếng thổn thức, một nỗi xót xa trào dâng qua từng nhịp đập của con tim.
- Nhưng những người còn mẹ sẽ vui vẻ hơn những người mất mẹ vì vậy nếu được chọn cài lên ngực những người còn mẹ sẽ hạnh phúc hơn rất nhiều phải không nào? Hồng Nhung gặng hỏi bạn.
- Tôi nghĩ đến tớ khi nằm trên thăng của người khác, những người may mắn còn mẹ sẽ hiểu họ cần phải làm gì xứng đáng với ân huệ mà cuộc đời còn dành cho họ. Họ cần phải có nhiều hơn để đến một ngày nào đó khi phải cài đặt lên vũ khí, họ không cảm thấy ân hận vì mình đã không làm một người tốt. Tôi hạnh phúc khi nói thay tình yêu của những người mất mẹ và nuôi dưỡng tới những người còn mẹ. Tôi đã làm giả sứ của tình nguyên tử quý giá.
Hồng Nhung nhìn Hồng ngưỡng ngưỡng. Cả hai yên lặng hút dưỡng dưỡng từ đất và uống sương đêm để mình đẹp hơn vào ngày mai.
(Diệu Bạch St)
◊-◊—————————————– ———————-◊-◊
NĂM THÁNG DẦN TRÔINĂM THÁNG DẦN TRÔI
Thích Thiện Phước
Cuộc đời là một hành trình luôn đưa ta về phía trước, không giậm chân tại chỗ, không lùi lại phía sau, từng bước chân trải dài ấy, luôn mang theo: Ước mơ thách thức, hạnh phúc niềm đau, nụ cười tiếng khóc, thất bại thành công, nhục vinh được mất,… có người đạt được đỉnh cao của sự nghiệp một cách mau chóng dễ dàng khi còn rất trẻ, có người lận đận mãi vẫn không thành, có người thì chưa lên đến đài vinh quang thì nhìn lại đã già, hơi tàn sức kiệt, rồi phải chống chọi chịu đựng với bệnh tật, như chờ đợi đến hồi kết thúc một chuyến đi xa…
Ai cũng có một thời vẫy vùng xông pha nơi chân trời góc biển, rồi cũng có lúc phải thu mình bình lặng chốn quê nhà, vui cùng cỏ nội mây ngàn, đếm từng giọt mưa rơi như dòng thời gian của đời người đang trút xuống… trở về sống cho mình, ngồi cắt móng tay, đếm từng hơi thở, soi gương nhìn mặt mình thật kỹ thật lâu, để thấy những nếp nhăn in đậm nét phong trần, thấy mây bay cuối tận chân trời mà lòng đầy xao xuyến, bỗng quên đi bao ký ức về cuộc đời thành bại nhục vinh, đã là lữ khách trần gian thì cái gì là của họ của ta, đến lúc an lòng nhìn lại buông xuôi muôn duyên để nhẹ lòng cho một chuyến đi về…“cô đơn không hẵn một mình, một mình không hẵn cô đơn”, chim hót, lá rơi, bầu trời đầy sao đêm…chỉ một mình ta nhưng ngập tràn hạnh phúc bao la.
Mờ sáng rừng thiền chưa dọi nắng
Đêm về hoa cỏ cũng lặng yên
Từng tiếng chim kêu bình minh dậy
Sương lờ bóng nguyệt giới hương bay.
Thật ra, đời người mau chóng lắm bạn, tất cả mọi chúng ta đều sẽ có ngày ly biệt và đến điểm dừng, đó là ngày mà mình rời xa thế giới nầy, ly biệt người thân thương, mọi thứ mà ta gắn bó trân quí yêu thích rồi cũng phải buông xuôi, ta không giữ mãi những gì mình có được, mất mát, đổi thay, tàn hoại…vì thế gian là vô thường, có một thứ không bao giờ thay đổi, đó là luôn luôn thay đổi, sống ở đời đôi lúc cũng phải tuỳ duyên, thay đổi chính mình cho phù hợp với thời đại hoàn cảnh, nếu ta không thay đổi thì sẽ bị thay thế và lùi về phía sau.
Nếu biết còn vài ngày, vài giờ, vài phút giây nữa để sống, thì bạn sẽ sống như thế nào, và làm gì cho khoảng thời gian còn lại của mình?… Ai nấy đều có nỗi khổ niềm đau, vì vậy cho dù hoàn cảnh nào, ta phải sống tràn ngập tình thương yêu: Bản thân, mọi người và muôn loài, khi tình thương đủ lớn thì cánh cửa khổ đau cũng dần khép lại, xin cho đi tình thương vô hạn bằng nhiều phương diện ở trong đời.
Lạy Phật mong sao cho con và mọi người mọi loài sống an lành tự tại, như cánh hạc tung bay giữa bầu trời cao rộng thênh thang, như những đám mây nhẹ nhàng phiêu bồng cao vút chốn thiên không, như dòng nước thì thầm len lõi xuyên qua mọi ngóc ngách của vũ trụ bao la, thong dong từng bước chân đi ngang cuộc đời một cách an toàn không vướng mắc, như làn gió thổi qua những cánh đồng hoa cỏ, mang theo hương thơm vi diệu lan tỏa khắp mọi chân trời.
Thời gian của kiếp người là một nguồn tài nguyên có giới hạn, không thể tái chế, mua bán, trao đổi, tiền bạc châu báu mất đi hôm nay, ngày mai có thể tìm được, còn thời gian trôi qua rồi, sẽ không bao giờ trở lại. Món quà vô giá này, tạo hóa đã ban cho chúng ta và muôn loài đồng đều như nhau. Mỗi ngày đêm có 24 giờ đồng hồ, nhưng chúng ta sử dụng vào việc gì, đó là chuyện cá nhân của từng người…
Đời người sống vài mươi năm, thật quá ngắn ngủi so với vòng luân hồi vô tận. Mỗi một hành nghiệp của chúng ta, dù tốt hay xấu, đều ẩn tàng lý nhân quả ở đó. Vì vậy, khi được làm thân người, bạn hãy tận dụng cơ hội hiếm có nầy, cố gắng sống nhân từ, đạo đức, chân chánh, trung nghĩa, thanh cao, liêm khiết,… trải lòng yêu thương giúp đỡ mọi người.
Cuộc đời, vốn dĩ có nhiều sự bất an đau khổ, ta nên sống sao cho có ý nghĩa, mang lại niềm vui cho mình và người. Ngày ngày tu nhân tích đức, sớm sớm tinh tấn công phu, cầu mong cho mọi người hết khổ, sống đời an vui hạnh phúc trong cõi phù du mộng ảo nầy.
Tuy nhiên, cuộc đời thật tươi đẹp cho những ai sống chân thật với nó: Và vẫn còn đâu đó những khoảng trời bình yên vô hạn, những đàn cò trắng bay lượn xa xa trên cánh đồng lúa bất tận giữa buổi chiều thu nhạt nắng, những khu rừng nguyên sinh xanh thẳm bao la, những dòng sông tĩnh lặng uốn khúc êm đềm, những chú ong dễ thương chăm chỉ hút mật, những đàn bướm bay chập chờn trong vườn hoa cỏ dại khi bình minh về còn đượm thấm sương đêm….thành trụ hoại không – thế gian vô thường, sanh già bệnh chết – thân người giả tạm, xuân hạ thu đông – năm tháng dần trôi, lá rụng về cội nước chảy ra khơi, an nhiên cho một chuyến đi về,…
Thong dong ở mọi phương trời
Mây bay gió thổi mong đời an yên.
Gót chân thoát tục tuỳ duyên
Lối về hoa cỏ thiên nhiên thanh nhàn.
Nha Mân, 03/2023.
Kinh Vu Lan – Thích Thiện Phước.