Thứ 7, ngày 17 tháng 5 năm 2025
Mờ sáng rừng thiền chưa dọi nắng, đêm về xóm vắng cũng lặng yên, từng tiếng chim kêu bình minh dậy, sương lờ bóng nguyệt giới hương bay. - Thiện Phước.

TẮM GỘI TÔN NGHI.

 TAMGOI

 Nguyên Tác: Nam Hải Ký Quy Nội Pháp Truyện[1]

Sa Môn Nghĩa Tịnh[2] đời Đường soạn. Thích Thiện Phước dịch.

 

     Nói đến nguồn cội của việc tôn kính, thì ngôi Tam bảo trên hết. Nguyên nhân để đạt đến khế ngộ, thì Tứ đế đứng đầu. Tuy nhiên, lý Tứ đế[3] rộng lớn sâu xa, người có tâm hời hợt không thể thấu đạt được. Cho nên, nghi tắm gội kim thân của Phật, thật là phương tiện cứu giúp muôn loài.

    Đức Thế tôn tuy nhập diệt, nhưng hình tượng vẫn còn hiện diện, lòng ngưỡng mộ còn hoài, theo lý nên tôn kính. Nếu có ai, luôn luôn dâng cúng hương hoa, thì phát sanh lòng thanh tịnh, hoặc có người thường thường tắm gội Thánh dung, cũng đủ để rửa sạch nghiệp hôn trầm[4].

     Lấy đây mà buộc niệm, tuy không nêu bày, nhưng lại càng thu nhiếp. Khuyên khen người làm, tự mình ra sức, thảy đều được lợi. Mong được phước lành, giữ gìn ý niệm.

     Tuy nhiên, việc tắm gội Tôn nghi[5], của các chùa ở Tây vực, thường cử hành vào giờ ngọ[6], người thọ sự授事[7] bèn đánh kiền chùy[8].

     Trước sân chùa mở trương lộng báu, bên điện đường bày đầy bình hương. Thỉnh lấy Tôn tượng bằng chất liệu: vàng, bạc, đồng, đá, rồi dùng cái bàn bằng: đá, gỗ, vàng, đồng mà thượng lên, bên trong chùa thì sắp xếp các ca nữ trỗi âm nhạc du dương.

     Dùng bột thơm nước hương, mà thoa tắm kim thân Đức Phật[9].

     Tiếp theo, dùng tấm lụa trắng[10] lau Tôn tượng. Sau cùng phụng thỉnh Tôn tượng an trí trong điện Phật, rải các loại hoa đủ màu để cúng dường. Đây chính là nghi thức ở trong các chùa, sai Yết Ma đà Na thực hiện.

     Thế nhưng, ở trong mỗi phòng, chỉ cần có hoa của các loài thảo mộc, đều đem phụng hiến, không luận là mùa đông hay hạ hương vẫn thơm lừng. Lúc này, người bán hương hoa ở trong chợ cũng rất đông.

     Hơn nữa, ở nước Đông Hạ:

     Loài hoa sen, thạch trúc, vào mùa hạ mùa thu mới tươi tốt.

    Cây kim kinh, đào hạnh, đúng vào tiết mùa xuân mới sum xuê.

    Cây mộc cận, thạch lựu, tùy thời mà phát triển.

    Cây châu anh, tố nại, theo thời mà tươi tốt.

    Loài hoa thục quỳ ở trong vườn nhà.

    Loài hương thảo thì ở chốn núi rừng.

    Cần phải đem đến sắp đặt dâng cúng, không nên chỉ để xa xa ở nơi vườn cây.

DP

    Khi gặp cảnh đông tàn, thiếu kém hoa tươi, thì cắt các loải lụa màu, dùng để đựng hương quý, rồi đem dâng cúng trước Tôn nghi, như thế cũng rất tốt rồi vậy.

    Nếu là tượng bằng đồng, không luận là lớn hay nhỏ, cần phải dùng tro và bột gạch lau chùi cho bóng sáng. Sau đó, dùng nước sạch mà rửa lại, thì sẽ sáng lòa[11] như gương soi.

   Chùa lớn thì một tháng, nửa tháng nhóm họp đại chúng cùng làm. Chùa nhỏ thì tùy theo khả năng mình, mà thường cử hành nghi thức tắm gội Tôn dung. Việc này đơn giản không hao tốn, nhưng phước lợi thật nhiều.

    Nước tắm Tôn tượng xong, liền dùng hai ngón tay sạch, chấm vào nước rồi tự để trên đảnh đầu mình, đây gọi là nước kiết tường, nhằm mong cầu được lợi ích thù thắng.

    Dâng hoa cúng dường dù khi hoa tàn, cũng không nên cầm ngửi. Khi đổ nước, bỏ hoa, không nên dẫm đạp, phải ở chỗ sạch mà nghiêng đổ.

    Qua đó cho ta thấy, đâu có chuyện, đến bạc đầu trọn kiếp, mà Tôn tượng không từng đem lau rửa. Hoa hồng nở khắp đồng nội, vốn tự vô tâm kính dâng.

    Phàm làm đệ tử Phật vậy mà biếng nhác, biết làm cho xong chuyện, chỉ để xa xa bên hồ, vườn cây mà thôi, đừng nên sợ khổ nhọc.

   Khi Khai đường[12] phổ thỉnh[13], bèn bỏ phép tắc này, thầy trò không truyền nhau nối tiếp, đến nỗi khiến cho lòng chí kính không do đâu mà phát sanh.

   Tạo nên tháp đất[14], cho đến đắp tô thành tượng đất, hoặc in trên giấy lụa, tùy nơi mà cúng dường, có khi chất gạch thành hình tròn rồi để Tôn tượng bên trong, liền thành tháp Phật.

   Có khi để ở đồng trống, tùy duyên tiêu tán, đạo tục ở Tây Vực, đều làm việc này.

   Lại nữa, khi tạo hình tượng Phật và Tháp, bằng: vàng, bạc, đồng, sắt, bùn, nhựa, ngói, gạch, cho đến nhóm cát, tuyết… Ngay trong khi làm, bên trong Tháp để hai loại Xá Lợi:

   Một là thân cốt của Phật.

   Hai là duyên khởi Pháp tụng[15].

   Làm bài tụng rằng:

諸法從緣起,

如來說是因;

彼法因緣盡,

是大沙門說。

    Phiên âm: 

Chư pháp tòng duyên khởi,
Như Lai thuyết thị nhân;
Bỉ pháp nhân duyên tận,
Thị đại Sa môn[16] thuyết.

    Tạm dịch:

Các pháp từ duyên khởi

Như Lai nói nhân ấy

Pháp kia nhân duyên diệt

Là đại Sa môn nói.

    Quan trọng là tôn trí hai Xá lợi này, phước báu vô biên.

    Do đó, trong kinh có nói thí dụ rất rộng, nếu như có ai khen ngợi, thì được lợi ích không thể nghĩ bàn.

    Nếu có ai tạo tượng nhiều như lúa mè, làm Chế Để (Tháp) nhỏ như trái táo, bên trên đảnh tháp để luân tướng[17], chừng bằng cây sào tre, hoặc như mũi kim. Do nhân duyên tốt đẹp này, công đức thù thắng, như bảy biển[18] lớn, không thể cùng tận, phước báu vô lượng, rộng khắp bốn loài, thật chẳng nói hết.

     Ngoài ra, nói rất rõ trong các Kinh điển khác[19]. Thật trông mong chư vị Pháp sư, dốc lòng noi theo vậy.

     Việc cung kính tắm gội Tôn dung[20], đời đời sanh ra luôn được gặp Phật; nhân trưng bày hoa hương cúng dường, kiếp kiếp mãi an vui giàu có. Tự làm, dạy người, được phước vô lượng.

     Từng thấy các nơi, vào ngày mùng 8 tháng 4[21], kẻ đạo người tục mang hình tượng Phật, an trí bên đường, tùy tiện tắm gội Tôn dung, không rõ nghi thức lau Tôn tượng, rồi để gió táp nắng nóng, thật chưa đúng với cách thức khi xưa vậy.

     Phụ lục chữ Hán:

南海寄歸內法傳

翻經三藏沙門義淨撰

灌沐尊儀

詳夫修敬之本無越三尊,契想之因寧過四諦。然而諦理幽邃事隔麁心,灌洗聖儀實為通濟。大師雖滅形像尚存,翹心如在理應遵敬。或可香花每設,能生清淨之心;或可灌沐恒,為足蕩昏沈之業。以斯摽念,無表之益自收;勸獎餘人,有作之功兼利。冀希福者,宜存意焉。

但西國諸寺灌沐尊儀,每於禺中之時,授事便鳴健稚 (授事者,梵云羯磨陀那。陀那是授,羯磨是事。意道以眾雜事指授於人。舊云維那者,非也。維是唐語,意道綱維。那是梵音,略去羯磨陀字),寺庭張施寶蓋,殿側羅列香瓶,取金銀銅石之像置以銅金木石槃,內令諸妓女奏其音樂,塗以磨香灌以香水(取栴檀沈水香木之輩,於礎石上以水磨使成泥,用塗像身,方持水灌),以淨白疊而揩拭之,然後安置殿中布諸花綵。此乃寺眾之儀,令羯磨陀那作矣。然於房房之內自浴尊儀,日日皆為,要心無闕。但是草木之花咸將奉獻,無論冬夏芬馥恒然,市肆之間賣者亦眾。且如東夏,蓮華石竹則夏秋散彩,金荊桃杏乃春日敷榮,木槿石榴隨時代發,朱櫻素柰逐節揚葩。園觀蜀葵之流、山莊香草之類,必須持來布列,無宜遙指樹園,冬景片時或容闕乏。剪諸繒綵坌以名香,設在尊前斯實佳也。至於銅像無問小大,須細灰甎末揩拭光明,清水灌之澄華若鏡。大者月半月盡合眾共為,小者隨己所能每須洗沐,斯則所費雖少而福利尤多。其浴像之水,即舉以兩指瀝自頂上,斯謂吉祥之水,冀求勝利。奉獻殘花不合持嗅,棄水棄花不應履踐,可於淨處而傾置之。豈容白首終年,尊像曾不揩沐;紅花遍野,本自無心奉薦。而遂省嬾作,遙指池園即休;畏苦惰為,開堂普敬便罷。此則師資絕緒,遂使致敬無由。造泥制底及拓摸泥像,或印絹紙隨處供養,或積為聚以塼裹之即成佛塔,或置空野任其銷散,西方法俗莫不以此為業。又復凡造形像及以制底,金銀銅鐵泥漆甎石或聚沙雪。當作之時,中安二種舍利:一謂大師身骨、二謂緣起法頌。其頌曰。

「諸法從緣起,

如來說是因;

彼法因緣盡,

是大沙門說。」

要安此二,福乃弘多。由是經中廣為譬喻,歎其利益不可思議。若人造像如穬麥、制底如小棗,上置輪相竿若細針,殊因類七海而無窮,勝報遍四生而莫盡。其間委細具在別經,幸諸法師等時可務哉。洗敬尊容,生生值佛之業;花香致設,代代富樂之因。自作教人,得福無量。曾見有處四月八日,或道或俗持像路邊,灌濯隨宜不知揩拭,風飄日暴未稱其儀矣。


[1] Lời người dịch.Bộ Nam Hải Ký Qui Nội Pháp Truyện南海寄歸內法傳. Gọi gọi tắc là Nam Hải Ký Qui Truyện,  Ký Qui Truyện, Ký Qui, chia thành 4 quyển, do Ngài Nghĩa Tịnh soạn vào đời Đường. Nội dung  sách có 40 chương, nói rất rõ về tình hình phân chia giáo đoàn Phật giáo, và nếp sống các Tăng lữ đương thời… Ngài ghi lại tất cả phong tục tập quán vùng miền, cùng những  gì thấy nghe trên suốt hành trình 20 năm vân du nơi miền Tây Trúc.Sách được soạn xong trong thời gian Ngài trở về nước, khi lưu trú tại nước Thi Lợi Phật Thệ, tọa lạc tại hướng đông của đảo Sumatra ngày nay. Kính Lễ bậc Đạo Sư ân đức lớn. Hôm nay:

 Mờ sáng rừng thiền chưa dọi nắng,  Sương đêm hoa dại ngát hương đài,

Ngọc lộ cỏ hoang bừng tia sáng, Thềm cũ rêu phong lá rơi đầy,

Gió thoảng cúi nhìn ao trong mát, Mây trời xa thẳm bức tranh thiêng,

Bóng trúc sân trần đời ngắn ngủi, Một thoáng nhân sinh giấc mộng dài,  

Trông về viễn xứ miền  tây trúc, Sáng ngời sử phật dệt vầng thơ,

Nguồn tâm chỉ thẳng về vô ngã, Niết bàn sanh tử bởi do ta. 

Tiếng pháp âm xưa như còn vọng lại từ Thứu lãnh xa xăm, bốn chúng như vây quanh miền Giác thọ. Giáo pháp thậm thâm, lòng từ lan tỏa, ba cõi đều nhờ, sáu đường thoát khổ.

Thật là, dù trải thân như kiếp bụi vẫn chưa đền. Ánh nắng chiều chợt tắt chốn Câu Thi, trông di tích sao không ngăn dòng lệ đổ. Rừng Sa La lặng gió, dòng Bạt Đề im trôi. Tây Thiên lãng đãng mờ sương, Nam Diêm đượm nhuần diệu Pháp.

Một chút suy tư khi chuyển dịch[1], kính lễ bậc Hùng Giác chứng tri, ngưỡng mong hiện tiền Tăng già  từ giám.

Trăm năm thế sự đời hư ảo

Một thoáng phù vân giấc mộng tàn

Lặng nghẹ chuông điểm mờ sương sớm

Lạc loài hoa dại gió thơm hương.

Nha Mân, ngày Phật Niết Bàn năm Ất Tỵ (2025).

[2] 義淨Nghĩa Tịnh, Gijō, 635-713: Vị cao Tăng dịch kinh nổi tiếng dưới thời nhà Đường, người huyện Trác (涿縣), Hà Bắc (河北), có thuyết cho là xuất thân vùng Tề Châu (齊州, Sơn Đông), họ là Trương (張), tự Văn Minh (文明). Ngài xuất gia từ lúc còn nhỏ, thiên tánh thông tuệ, đã từng đi tham vấn khắp các bậc danh đức, đọc qua các điển tịch. Năm lên 15 tuổi, sư rất ngưỡng mộ cuộc Tây du thỉnh kinh của Sư Pháp Hiển (法顯, 340?-?) và Huyền Trang (玄奘, 602-664). Đến năm 20 tuổi, sư thọ Cụ Túc giới. Vào năm thứ 2 (671) niên hiệu Hàm Hanh (咸亨), sư đi qua Quảng Châu (廣州), dọc theo đường biển, đến vùng Thất Lợi Phất Thệ (室利弗逝, tức Tô Môn Đáp Lạp Ba Lân Bàng [Palembang, 蘇門答臘巴鄰旁]) và cuối cùng đến được Ấn Độ. Tại đây sư đã chí thành triều bái và đảnh lễ các thánh địa Phật Giáo như Thứu Phong (鷲峰, tức Kỳ Xà Quật Sơn [s: Gṛdhrakūṭa, p: Gijjhakūṭa, 耆闍崛山]), Kê Túc Sơn (雞足山), Vườn Lộc Uyển (s: Mṛgadāva, p: Migadāya, 鹿苑), Kỳ Viên Tinh Xá (p: Jetavana Anāthapiṇḍikārāma, 祇園精舍), v.v… Sau đó, sư đến tu học tại Na Lan Đà Tự (s: Nālandā, 那爤陀寺) trong suốt 10 năm, rồi đi vân du qua hơn 30 tiểu quốc. Khi trở về nước, sư mang về Lạc Dương khoảng 400 bộ kinh luận bằng tiếng Phạn và 300 viên xá lợi; chính Võ Hậu đích thân ra tận Đông môn nghinh tiếp và hạ chiếu chỉ cho sư trụ trì Phật Thọ Ký Tự (佛授記寺). Từ đó trở đi, sư tham gia vào công tác trùng dịch Kinh Hoa Nghiêm (華嚴經), cùng các thư tịch về giới luật, Duy Thức, Mật Giáo, v.v… Kể từ năm thứ 2 (699) niên hiệu Thánh Lịch (聖曆) cho đến năm thứ 2 (711) niên hiệu Cảnh Vân (景雲), sư đã dịch được 56 bộ, 230 quyển, trong số đó thư tịch liên quan đến giới luật là nhiều nhất và những điển tịch hiện lưu truyền của Tỳ Nại Da thuộc Hữu Bộ phần lớn đều do sư phiên dịch cả. Sư cùng với Cưu Ma La Thập (s: Kumārajīva, 鳩摩羅什, 344-413), Huyền Trang (玄奘, 602-664), và Chơn Đế (s: Paramārtha, 眞諦, 499-569) được xem như là 4 nhà phiên dịch lớn. Ngoài việc phiên dịch, sư còn lấy giới luật dạy dỗ đồ chúng. Trước tác của sư có Nam Hải Ký Quy Nội Pháp Truyện (南海寄歸內法傳) 4 quyển, Đại Đường Tây Vức Cầu Pháp Cao Tăng Truyện (大唐西域求法高僧傳) 2 quyển, v.v… Trong tác phẩm của sư có ghi lại những sinh hoạt của chư tăng, phong tục, tập quán, v.v., ở các nước mà sư đã từng đi qua, là tư liệu vô cùng quan trọng để chúng ta có thể biết được Ấn Độ đương thời như thế nào. Sư thị tịch vào tháng giêng năm thứ 2 niên hiệu Tiên Thiên (先天), hưởng thọ 79 tuổi. Tháp được dựng tại Long Môn (龍門), Lạc Dương (洛陽).

[3] Tứ Diệu Đế hay Tứ Thánh Đế, bao gồm: Khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế, Đạo Đế.

[4] 惛 沈 Hôn trầm: S: styāna. Một trong Đại phiền não địa pháp ghi trong A-tì-đạt-ma Câu-xá luận. Là một trong 20 tuỳ phiền não trong giáo lí Duy thức. Là tâm hành trở nên mê muội và chìm đắm. Sự u sầu, u uất. (Theo từ điển Phật học Đạo Uyển).

[5] 尊儀Tôn nghi: Nghi dung Tôn quí. 尊貴之儀容

[6] 禺中Ngun trung: Gần giờ ngọ意思是将近午时. Có bản ghi nhầm là Nam trung男中.

[7] 授事Thọ sự: tiếng Phạn là Yết Ma Đà Na羯磨陀那, Đà Na là thọ, Yết Ma là sự. Ý nói đem các việc lặt vặt giao cho người. Xưa gọi Duy na維那 là sai vậy. Duy là tiếng nước Đại Đường, nghĩa là kỷ cương khuôn phép, Na là âm tiếng Phạn, lược bỏ chữ Yết Ma Đà. 授事者,梵云羯磨陀那。陀那是授,羯磨是事。意道以眾雜事指授於人。舊云維那者,非也。維是唐語,意道綱維。那是梵音,略去羯磨陀 字)

[8]健稚: Kiền-trì, Kiền-trĩ, Kiền-để): khí cụ dùng để đánh báo giờ trong tự viện. Theo luật Ngũ Phần 18 và Đại Tỳ-kheo Tam Thiên Oai Nghi, q. hạ, khi bố-tát hoặc tụng kinh hoặc tập hội chúng tăng thọ trai v.v…đều có thể đánh kiền-chùy, giống như việc đánh bảng trong các tự viện ngày nay. Tiếng Phạn là ghanta, trong các kinh dịch có khác nhau, hoặc dịch là chuông, khánh, linh báu, mõ v.v.

[9] Lấy loại gỗ thơm Chiên Đàn, Trầm Thủy, nghiền ở trên đá, hòa với nước mà mài thành bột, rồi đem thoa lên thân tượng, kế đó lấy nước tắm gội Tôn tượng. 取栴檀沈水香木之輩。於礎石上。以水磨使成泥。用塗像身。方持水灌.

[10] 白㲲 (疊) Bạch chiên (điệp): Lụa trắng mịn.

[11] 澄華 Trừng hoa: Băng hoa sáng sạch明凈的冰花

[12] 開堂 Khai đường: Tiếng dùng trong Thiền lâm. Nguyên là nghi thức trong việc dịch kinh đời xưa. Hàng năm, đến ngày Thánh đản (sinh nhật của vua), viện Dịch kinh thường phải dâng một bộ kinh mới dịch lên để chúc thọ vua. Hai tháng trước đó, các quan nhóm họp để xem xét việc dịch kinh. Rồi trước ngày Thánh đản 1 tháng, các vị Dịch kinh sứ và quan nhuận văn lại nhóm họp để dâng bộ kinh ấy lên vua, gọi là Khai đường. Về sau, buổi tuyên thuyết đại pháp của vị Tân trụ trì trong lễ nhập tự cũng được gọi là Khai đường, đây là nghi thức quan trọng trong Thiền lâm. Trong lễ nhập tự, cũng có nghi thức cầu nguyện quốc thái dân an, Thánh hoàng muôn tuổi, cho nên cũng được gọi là Khai đường chúc thọ, Khai đường chúc thánh, Chúc quốc khai đường. Về nghi thức Khai đường thì trước hết cung thỉnh một vị tăng đức độ cao vời, kiến thức sâu rộng, giữ chức Bạch chùy sư, an tọa tại phía đông pháp tòa để giám sát việc khai đường. Các quan viên thì ngồi đối diện với pháp tòa. Kế đến nghinh thỉnh vị Trụ trì, sau khi trình công văn (những giấy tờ về việc bổ nhiệm Trụ trì) và tuyên nói pháp ngữ, vị Duy na đọc các lá sớ. Sau đó, vị Trụ trì đưa tay chỉ về phía pháp tòa, tuyên thuyết pháp ngữ, rồi thăng tòa niệm hương chúc mừng Thánh thọ. Khi Đế sư và các quan lần lượt niệm hương xong, Bạch chùy sư gõ một tiếng kiền chùy (cái kiểng) rồi nói (Vạn tục 113, 118 hạ): Chúng long tượng trong pháp hội, nên quán xét Đệ nhất nghĩa. Tiếp theo, vị Trụ trì nêu lên cương yếu của tông môn, cảm tạ các quan, chư sơn Thiền đức, Bạch chùy sư lại gõ chùy xướng rằng: Quán xét kĩ pháp của Pháp vương, pháp của Pháp vương là như thế. Sau cùng, vị Trụ trì dộng tích trượng xuống đất một tiếng, rồi bắt đầu vấn thoại (hỏi đáp giảng giải). Vấn đáp xong, kết thúc nghi thức Khai đường. Ngoài ra, Khai đường Hòa thượng là một vị Chấp sự quan trọng trong đàn truyền giới ở Trung quốc. Về các pháp tắc thụ giới, về các nghi lễ và quy củ sinh hoạt của giới tử, v.v… đều do Khai đường hòa thượng chỉ dạy. [X. Tổ đình sự uyển Q.8; điều Nhập viện khai đường chúc thọ, chương Trụ trì trong Bách trượng thanh qui Q. thượng; môn Tùng quĩ trong Thiền lâm tượng khí tiên].

[13] 普請 Phổ thỉnh: Cũng gọi Xuất pha. Mời tất cả mọi người. Trong Thiền lâm, khi làm các việc nặng nhọc thì mời tất cả đại chúng chung sức để thực hiện, gọi là Phổ thỉnh. Cứ theo Nhập đường cầu pháp tuần lễ hành kí quyển 2, chế độ Phổ thỉnh được thực hành ở khắp các tùng lâm vào đời Đường. Đến mùa thu hoạch nho táo, rau đậu, thì các bậc Thượng tọa trong Thiền viện cũng tham gia hái quả, nhặt lá; lúc nhà bếp hết củi thì chúng tăng đi lấy củi. Vì các Thiền viện thời xưa hầu hết đều làm ruộng, nên các việc cày cấy, hái chè… đều phải phổ thỉnh. Ngoài ra, việc xây dựng nhà cửa cũng gọi là Phổ thỉnh, vì phải cần nhiều người hợp lực tham gia. [X. Phổ thỉnh pháp trong Tăng đường thanh qui Q.3; Đại tống tăng sử lược Q.thượng; điều Phổ thỉnh trong Sắc tu Bách trượng thanh qui Q.6; điều Bách trượng Hoài hải trong Cảnh đức truyền đăng lục Q.7; điều Qui sơn Linh hựu Q.9; điều Hoàng bá hi vận Q.12 và điều Hoa nghiêm Hưu tĩnh Q.17; Bích nham lục tắc 5; Liên đăng hội yếu Q.4, 7; môn Tùng quỹ trong Thiền lâm tượng khí tiên].

[14] 制 底 Chế để: Còn gọi là chi đề Sktcaitya, Pālicetya, có nghĩa là tích tụ, hay tụ tướng. Lúc trà tỳ đức Thế tôn, nơi đây đã từng tích tụ gỗ thơm rất nhiều, nên sau này nơi này trở thành linh tích. Ở đây còn có nghĩa là nơi tích tụ vô lượng phước đức của đức Thế tôn nên nơi đây đã dựng lên những linh miếu, tháp miếu v.v… nên gọi là chi đề, hay chế để.

[15] 緣起法頌 Duyên khởi Pháp tụng: Gọi tắt của Duyên khởi pháp chi kệ tụng. Cũng gọi Duyên khởi kệ. Tức là văn kệ nói về Khổ, Tập, Diệt trong bốn đế, là nghĩa căn bản của Phật giáo. Văn kệ bằng tiếng Phạm như sau: Ye dharmà-hetu prabhavàhetuô tewaô tathàgato hy avadat, tewaô ca yo nirodho evaô vàdì mahà-zramaịa#. Văn kệ bằng tiếngPàli: Ye dhammà hetu-ppabhavà tewaô hetuô tathàgato àha, tesaĩ ca yo nirodho evaô vàdì mahàsamaịo. Bản Hán dịch của bài kệ này trong các kinh luận có khác nhau, kinh Sơ phần thuyết quyển hạ (Đại 14, 768 trung), chép:Nhược pháp nhân duyên sinh Pháp diệc nhân duyên diệt Thị sinh diệt nhân duyên Phật đại sa môn thuyết. (Pháp từ nhân duyên sinh Cũng theo nhân duyên diệt Nhân duyên sinh diệt ấy Phật đại sa môn nói). Hữu bộ tì nại da Xuất gia sự quyển 2 (Đại 23, 1027 hạ), chép: Chư pháp tòng duyên khởi Như lai thuyết thị nhân Bỉ pháp nhân duyên tận Thị đại sa môn thuyết. (Các pháp từ duyên sinh Như lai nói là nhân Pháp ấy do duyên diệt Đại sa môn nói thế). Luận Đại trí độ quyển 11 (Đại 25, 136 hạ), chép: Chư pháp nhân duyên sinh Thị pháp thuyết nhân duyên Thị pháp nhân duyên tận Đại sư như thị thuyết (Nhân duyên sinh các pháp Pháp ấy là nhân duyên Nhân duyên hết pháp diệt Đại sư nói như vậy) Cứ theo Luật tạng đại phẩm (Pàli: Mahà-vagga) I.23 và luật Tứ phần quyển 33, thì bài kệ này do tỳ kheo Mã thắng (Phạm: Azvajit, Pàli: Assaji) nói cho ngài Xá lợi phất (khi còn tu theo ngoại đạo) nghe, nhờ đó, ngài Xá lợi phất chứng được quả Dự lưu, rồi cùng với ngài Mục kiền liên (bạn đồng tu) cùng về quy y theo Phật. Nếu bài kệ tụng này được viết trên tháp, hoặc để vào trong tháp hay trong tượng Phật, thì gọi là kệ Pháp thân xá lợi hay kệ Pháp thân. Ở cuối các kinh bản tiếng Phạn hiện còn hoặc bản dịch Tây tạng thường có ghi, rồi ở tòa ngồi hoặc trên hào quang sau lưng tượng Phật cũng khắc bài kệ này. [X. Trường trảo Phạm chí duyên trong kinh Soạn tập bách duyên Q.10; kinh Quá khứ hiện tại nhân quả Q.14; phẩm Đại đệ tử xuất gia trong Phật sở hành tán Q.4; phẩm Bảo chàng phần ma khổ trong kinh Đại phương đẳng đại tập Q.19; kinh Thánh ca ni phẫn nộ kim cương đồng tử bồ tát thành tựu nghi quĩ Q.thượng; luật Ngũ phần Q.16; luận Đại trí độ Q.18; Đại nhật kinh sớ Q.7; Quán mộc tôn nghi trong Nam hải kí qui nội pháp truyện Q.4].

[16]大沙門Đại sa môn: Phạm: Mahà-zramaịa, Pàli: Mahàsamaịa. Tiếng tôn xưng đức Phật. Phật là bậc sa môn vĩ đại nhất trong các sa môn, nên gọi là Đại sa môn. Ngoài ra, so với sa di hoặc người ngoại đạo xuất gia thì tỳ kheo cao cả hơn nên cũng gọi Đại sa môn. [X. luật Tứ phần Q.33]..

[17] 輪相 Luân Tướng: Cũng gọi Tướng luân, Thừa lộ bàn, Luân cái. Bộ phận kiến trúc hình cái lọng trên đỉnh tháp. Ở Nhật bản bộ phận này thường là 9 lớp nên gọi Cửu luân. Nam hải kí qui nội pháp truyện quyển 4 (Đại 54, 226 hạ) nói: Đáy phẳng nhỏ bằng quả táo, trên đặt luân tướng, ngọn nhỏ như cây kim. [X. Phiên dịch danh nghĩa tập Q.7]. (xt. Thừa Lộ Bàn) (一)指塔頂上之輪盤形建築。又作相輪、承露盤、輪蓋。在日本,相輪通常有九層,故又稱九輪。經律中又有金剎、露盤等名稱。南海寄歸內法傳卷四(大五四·二二六下):「制底如小棗,上置輪相,竿若細針。」[翻譯名義集卷七](參閱「承露盤」3254)

[18] 七海 Thất Hải: Bảy biển. Núi Tu di có 7 lớp núi vàng bao bọc, ở khoảng giữa các núi ấy có 8 lớp biển. Ngoài lớp biển nước mặn, thì 7 lớp biển còn lại đều chứa đầy nước 8 công đức, được gọi chung là Thất hải. THẤT HẮC SƠN Chỉ cho 7 ngọn Hắc sơn ở khoảng giữa từ phía bắc thành Tì xá ly, Trung Ấn độ, đến núi Hương túy (Phạm: Gandhamadana) thuộc dãy Hi mã lạp nhã ở Bắc Ấn Độ. Phẩm Diêm phù đề trong luận Lập thế a tì đàm quyển 1 ghi tên của 7 ngọn núi này như sau: Núi Tiểu hắc, núi Đại hắc, núi Đa li ngưu, núi Nhật quang, núi Ngân, núi Hương thủy và núi Kim biên. Nếu người lên đỉnh núi Kim biên, đứng xoay mặt hướng Bắc, trông về nơi xa thẳm thì chỉ thấy màu tối đen. Theo luận Câu xá quyển 11 thì các núi thuộc dãy Hi mã lạp nhã trên chóp núi thường có tuyết trắng bao phủ, cho nên gọi là Tuyết sơn. Còn các núi ở phía nam thì trên đỉnh không có tuyết phủ, thay vào đó là cây cối um tùm, rậm rạp, chỉ toàn một màu tối đen, cho nên gọi là Hắc sơn.

[19] 別經 Biệt kinh: Các kinh khác: Phật Thuyết Tạo Tượng Công Đức Kinh do Địa Bà Ha La dịch vào đời Đường, Phật Thuyết Đại Thừa Tạo Tượng Công Đức Kinh do Đề Vân Bát Nhã dịch vào đời Đường…

[20] 尊容 Tôn dung: Dáng vẻ tôn quý, chỉ cho hình tượng Phật, hình tượng Thần. 尊容是一个汉语词汇,意思是尊贵的容貌﹐特指佛像﹑神像

[21] Chỉ cho truyền Thống Phật Giáo Trung Quốc, cử hành hoạt động tắm Phật vào ngày mùng 8 tháng tư, là ngày Phật Thích Ca Mâu Ni giáng sanh.

 

******—————————————————–******

Những Bài Viết Liên Quan
587922
Total Visit : 486234