Nguyên Tác: Nam Hải Ký Quy Nội Pháp Truyện[1]
Sa Môn Nghĩa Tịnh[2] đời Đường soạn. Thích Thiện Phước dịch.
Nói đến nguồn cội của việc tôn kính, thì ngôi Tam bảo trên hết. Nguyên nhân để đạt đến khế ngộ, thì Tứ đế đứng đầu. Tuy nhiên, lý Tứ đế[3] rộng lớn sâu xa, người có tâm hời hợt không thể thấu đạt được. Cho nên, nghi tắm gội kim thân của Phật, thật là phương tiện cứu giúp muôn loài.
Đức Thế tôn tuy nhập diệt, nhưng hình tượng vẫn còn hiện diện, lòng ngưỡng mộ còn hoài, theo lý nên tôn kính. Nếu có ai, luôn luôn dâng cúng hương hoa, thì phát sanh lòng thanh tịnh, hoặc có người thường thường tắm gội Thánh dung, cũng đủ để rửa sạch nghiệp hôn trầm[4].
Lấy đây mà buộc niệm, tuy không nêu bày, nhưng lại càng thu nhiếp. Khuyên khen người làm, tự mình ra sức, thảy đều được lợi. Mong được phước lành, giữ gìn ý niệm.
Tuy nhiên, việc tắm gội Tôn nghi[5], của các chùa ở Tây vực, thường cử hành vào giờ ngọ[6], người thọ sự授事[7] bèn đánh kiền chùy[8].
Trước sân chùa mở trương lộng báu, bên điện đường bày đầy bình hương. Thỉnh lấy Tôn tượng bằng chất liệu: vàng, bạc, đồng, đá, rồi dùng cái bàn bằng: đá, gỗ, vàng, đồng mà thượng lên, bên trong chùa thì sắp xếp các ca nữ trỗi âm nhạc du dương.
Dùng bột thơm nước hương, mà thoa tắm kim thân Đức Phật[9].
Tiếp theo, dùng tấm lụa trắng[10] lau Tôn tượng. Sau cùng phụng thỉnh Tôn tượng an trí trong điện Phật, rải các loại hoa đủ màu để cúng dường. Đây chính là nghi thức ở trong các chùa, sai Yết Ma đà Na thực hiện.
Thế nhưng, ở trong mỗi phòng, chỉ cần có hoa của các loài thảo mộc, đều đem phụng hiến, không luận là mùa đông hay hạ hương vẫn thơm lừng. Lúc này, người bán hương hoa ở trong chợ cũng rất đông.
Hơn nữa, ở nước Đông Hạ:
Loài hoa sen, thạch trúc, vào mùa hạ mùa thu mới tươi tốt.
Cây kim kinh, đào hạnh, đúng vào tiết mùa xuân mới sum xuê.
Cây mộc cận, thạch lựu, tùy thời mà phát triển.
Cây châu anh, tố nại, theo thời mà tươi tốt.
Loài hoa thục quỳ ở trong vườn nhà.
Loài hương thảo thì ở chốn núi rừng.
Cần phải đem đến sắp đặt dâng cúng, không nên chỉ để xa xa ở nơi vườn cây.
Khi gặp cảnh đông tàn, thiếu kém hoa tươi, thì cắt các loải lụa màu, dùng để đựng hương quý, rồi đem dâng cúng trước Tôn nghi, như thế cũng rất tốt rồi vậy.
Nếu là tượng bằng đồng, không luận là lớn hay nhỏ, cần phải dùng tro và bột gạch lau chùi cho bóng sáng. Sau đó, dùng nước sạch mà rửa lại, thì sẽ sáng lòa[11] như gương soi.
Chùa lớn thì một tháng, nửa tháng nhóm họp đại chúng cùng làm. Chùa nhỏ thì tùy theo khả năng mình, mà thường cử hành nghi thức tắm gội Tôn dung. Việc này đơn giản không hao tốn, nhưng phước lợi thật nhiều.
Nước tắm Tôn tượng xong, liền dùng hai ngón tay sạch, chấm vào nước rồi tự để trên đảnh đầu mình, đây gọi là nước kiết tường, nhằm mong cầu được lợi ích thù thắng.
Dâng hoa cúng dường dù khi hoa tàn, cũng không nên cầm ngửi. Khi đổ nước, bỏ hoa, không nên dẫm đạp, phải ở chỗ sạch mà nghiêng đổ.
Qua đó cho ta thấy, đâu có chuyện, đến bạc đầu trọn kiếp, mà Tôn tượng không từng đem lau rửa. Hoa hồng nở khắp đồng nội, vốn tự vô tâm kính dâng.
Phàm làm đệ tử Phật vậy mà biếng nhác, biết làm cho xong chuyện, chỉ để xa xa bên hồ, vườn cây mà thôi, đừng nên sợ khổ nhọc.
Khi Khai đường[12] phổ thỉnh[13], bèn bỏ phép tắc này, thầy trò không truyền nhau nối tiếp, đến nỗi khiến cho lòng chí kính không do đâu mà phát sanh.
Tạo nên tháp đất[14], cho đến đắp tô thành tượng đất, hoặc in trên giấy lụa, tùy nơi mà cúng dường, có khi chất gạch thành hình tròn rồi để Tôn tượng bên trong, liền thành tháp Phật.
Có khi để ở đồng trống, tùy duyên tiêu tán, đạo tục ở Tây Vực, đều làm việc này.
Lại nữa, khi tạo hình tượng Phật và Tháp, bằng: vàng, bạc, đồng, sắt, bùn, nhựa, ngói, gạch, cho đến nhóm cát, tuyết… Ngay trong khi làm, bên trong Tháp để hai loại Xá Lợi:
Một là thân cốt của Phật.
Hai là duyên khởi Pháp tụng[15].
Làm bài tụng rằng:
諸法從緣起,
如來說是因;
彼法因緣盡,
是大沙門說。
Phiên âm:
Chư pháp tòng duyên khởi,
Như Lai thuyết thị nhân;
Bỉ pháp nhân duyên tận,
Thị đại Sa môn[16] thuyết.
Tạm dịch:
Các pháp từ duyên khởi
Như Lai nói nhân ấy
Pháp kia nhân duyên diệt
Là đại Sa môn nói.
Quan trọng là tôn trí hai Xá lợi này, phước báu vô biên.
Do đó, trong kinh có nói thí dụ rất rộng, nếu như có ai khen ngợi, thì được lợi ích không thể nghĩ bàn.
Nếu có ai tạo tượng nhiều như lúa mè, làm Chế Để (Tháp) nhỏ như trái táo, bên trên đảnh tháp để luân tướng[17], chừng bằng cây sào tre, hoặc như mũi kim. Do nhân duyên tốt đẹp này, công đức thù thắng, như bảy biển[18] lớn, không thể cùng tận, phước báu vô lượng, rộng khắp bốn loài, thật chẳng nói hết.
Ngoài ra, nói rất rõ trong các Kinh điển khác[19]. Thật trông mong chư vị Pháp sư, dốc lòng noi theo vậy.
Việc cung kính tắm gội Tôn dung[20], đời đời sanh ra luôn được gặp Phật; nhân trưng bày hoa hương cúng dường, kiếp kiếp mãi an vui giàu có. Tự làm, dạy người, được phước vô lượng.
Từng thấy các nơi, vào ngày mùng 8 tháng 4[21], kẻ đạo người tục mang hình tượng Phật, an trí bên đường, tùy tiện tắm gội Tôn dung, không rõ nghi thức lau Tôn tượng, rồi để gió táp nắng nóng, thật chưa đúng với cách thức khi xưa vậy.
Phụ lục chữ Hán:
南海寄歸內法傳
翻經三藏沙門義淨撰
灌沐尊儀
詳夫修敬之本無越三尊,契想之因寧過四諦。然而諦理幽邃事隔麁心,灌洗聖儀實為通濟。大師雖滅形像尚存,翹心如在理應遵敬。或可香花每設,能生清淨之心;或可灌沐恒,為足蕩昏沈之業。以斯摽念,無表之益自收;勸獎餘人,有作之功兼利。冀希福者,宜存意焉。
但西國諸寺灌沐尊儀,每於禺中之時,授事便鳴健稚 (授事者,梵云羯磨陀那。陀那是授,羯磨是事。意道以眾雜事指授於人。舊云維那者,非也。維是唐語,意道綱維。那是梵音,略去羯磨陀字),寺庭張施寶蓋,殿側羅列香瓶,取金銀銅石之像置以銅金木石槃,內令諸妓女奏其音樂,塗以磨香灌以香水(取栴檀沈水香木之輩,於礎石上以水磨使成泥,用塗像身,方持水灌),以淨白疊而揩拭之,然後安置殿中布諸花綵。此乃寺眾之儀,令羯磨陀那作矣。然於房房之內自浴尊儀,日日皆為,要心無闕。但是草木之花咸將奉獻,無論冬夏芬馥恒然,市肆之間賣者亦眾。且如東夏,蓮華石竹則夏秋散彩,金荊桃杏乃春日敷榮,木槿石榴隨時代發,朱櫻素柰逐節揚葩。園觀蜀葵之流、山莊香草之類,必須持來布列,無宜遙指樹園,冬景片時或容闕乏。剪諸繒綵坌以名香,設在尊前斯實佳也。至於銅像無問小大,須細灰甎末揩拭光明,清水灌之澄華若鏡。大者月半月盡合眾共為,小者隨己所能每須洗沐,斯則所費雖少而福利尤多。其浴像之水,即舉以兩指瀝自頂上,斯謂吉祥之水,冀求勝利。奉獻殘花不合持嗅,棄水棄花不應履踐,可於淨處而傾置之。豈容白首終年,尊像曾不揩沐;紅花遍野,本自無心奉薦。而遂省嬾作,遙指池園即休;畏苦惰為,開堂普敬便罷。此則師資絕緒,遂使致敬無由。造泥制底及拓摸泥像,或印絹紙隨處供養,或積為聚以塼裹之即成佛塔,或置空野任其銷散,西方法俗莫不以此為業。又復凡造形像及以制底,金銀銅鐵泥漆甎石或聚沙雪。當作之時,中安二種舍利:一謂大師身骨、二謂緣起法頌。其頌曰。
「諸法從緣起,
如來說是因;
彼法因緣盡,
是大沙門說。」
要安此二,福乃弘多。由是經中廣為譬喻,歎其利益不可思議。若人造像如穬麥、制底如小棗,上置輪相竿若細針,殊因類七海而無窮,勝報遍四生而莫盡。其間委細具在別經,幸諸法師等時可務哉。洗敬尊容,生生值佛之業;花香致設,代代富樂之因。自作教人,得福無量。曾見有處四月八日,或道或俗持像路邊,灌濯隨宜不知揩拭,風飄日暴未稱其儀矣。
[1] Lời người dịch.Bộ Nam Hải Ký Qui Nội Pháp Truyện南海寄歸內法傳. Gọi gọi tắc là Nam Hải Ký Qui Truyện, Ký Qui Truyện, Ký Qui, chia thành 4 quyển, do Ngài Nghĩa Tịnh soạn vào đời Đường. Nội dung sách có 40 chương, nói rất rõ về tình hình phân chia giáo đoàn Phật giáo, và nếp sống các Tăng lữ đương thời… Ngài ghi lại tất cả phong tục tập quán vùng miền, cùng những gì thấy nghe trên suốt hành trình 20 năm vân du nơi miền Tây Trúc.Sách được soạn xong trong thời gian Ngài trở về nước, khi lưu trú tại nước Thi Lợi Phật Thệ, tọa lạc tại hướng đông của đảo Sumatra ngày nay. Kính Lễ bậc Đạo Sư ân đức lớn. Hôm nay:
Mờ sáng rừng thiền chưa dọi nắng, Sương đêm hoa dại ngát hương đài,
Ngọc lộ cỏ hoang bừng tia sáng, Thềm cũ rêu phong lá rơi đầy,
Gió thoảng cúi nhìn ao trong mát, Mây trời xa thẳm bức tranh thiêng,
Bóng trúc sân trần đời ngắn ngủi, Một thoáng nhân sinh giấc mộng dài,
Trông về viễn xứ miền tây trúc, Sáng ngời sử phật dệt vầng thơ,
Nguồn tâm chỉ thẳng về vô ngã, Niết bàn sanh tử bởi do ta.
Tiếng pháp âm xưa như còn vọng lại từ Thứu lãnh xa xăm, bốn chúng như vây quanh miền Giác thọ. Giáo pháp thậm thâm, lòng từ lan tỏa, ba cõi đều nhờ, sáu đường thoát khổ.
Thật là, dù trải thân như kiếp bụi vẫn chưa đền. Ánh nắng chiều chợt tắt chốn Câu Thi, trông di tích sao không ngăn dòng lệ đổ. Rừng Sa La lặng gió, dòng Bạt Đề im trôi. Tây Thiên lãng đãng mờ sương, Nam Diêm đượm nhuần diệu Pháp.
Một chút suy tư khi chuyển dịch[1], kính lễ bậc Hùng Giác chứng tri, ngưỡng mong hiện tiền Tăng già từ giám.
Trăm năm thế sự đời hư ảo
Một thoáng phù vân giấc mộng tàn
Lặng nghẹ chuông điểm mờ sương sớm
Lạc loài hoa dại gió thơm hương.
Nha Mân, ngày Phật Niết Bàn năm Ất Tỵ (2025).
[2] 義淨Nghĩa Tịnh, Gijō, 635-713: Vị cao Tăng dịch kinh nổi tiếng dưới thời nhà Đường, người huyện Trác (涿縣), Hà Bắc (河北), có thuyết cho là xuất thân vùng Tề Châu (齊州, Sơn Đông), họ là Trương (張), tự Văn Minh (文明). Ngài xuất gia từ lúc còn nhỏ, thiên tánh thông tuệ, đã từng đi tham vấn khắp các bậc danh đức, đọc qua các điển tịch. Năm lên 15 tuổi, sư rất ngưỡng mộ cuộc Tây du thỉnh kinh của Sư Pháp Hiển (法顯, 340?-?) và Huyền Trang (玄奘, 602-664). Đến năm 20 tuổi, sư thọ Cụ Túc giới. Vào năm thứ 2 (671) niên hiệu Hàm Hanh (咸亨), sư đi qua Quảng Châu (廣州), dọc theo đường biển, đến vùng Thất Lợi Phất Thệ (室利弗逝, tức Tô Môn Đáp Lạp Ba Lân Bàng [Palembang, 蘇門答臘巴鄰旁]) và cuối cùng đến được Ấn Độ. Tại đây sư đã chí thành triều bái và đảnh lễ các thánh địa Phật Giáo như Thứu Phong (鷲峰, tức Kỳ Xà Quật Sơn [s: Gṛdhrakūṭa, p: Gijjhakūṭa, 耆闍崛山]), Kê Túc Sơn (雞足山), Vườn Lộc Uyển (s: Mṛgadāva, p: Migadāya, 鹿苑), Kỳ Viên Tinh Xá (p: Jetavana Anāthapiṇḍikārāma, 祇園精舍), v.v… Sau đó, sư đến tu học tại Na Lan Đà Tự (s: Nālandā, 那爤陀寺) trong suốt 10 năm, rồi đi vân du qua hơn 30 tiểu quốc. Khi trở về nước, sư mang về Lạc Dương khoảng 400 bộ kinh luận bằng tiếng Phạn và 300 viên xá lợi; chính Võ Hậu đích thân ra tận Đông môn nghinh tiếp và hạ chiếu chỉ cho sư trụ trì Phật Thọ Ký Tự (佛授記寺). Từ đó trở đi, sư tham gia vào công tác trùng dịch Kinh Hoa Nghiêm (華嚴經), cùng các thư tịch về giới luật, Duy Thức, Mật Giáo, v.v… Kể từ năm thứ 2 (699) niên hiệu Thánh Lịch (聖曆) cho đến năm thứ 2 (711) niên hiệu Cảnh Vân (景雲), sư đã dịch được 56 bộ, 230 quyển, trong số đó thư tịch liên quan đến giới luật là nhiều nhất và những điển tịch hiện lưu truyền của Tỳ Nại Da thuộc Hữu Bộ phần lớn đều do sư phiên dịch cả. Sư cùng với Cưu Ma La Thập (s: Kumārajīva, 鳩摩羅什, 344-413), Huyền Trang (玄奘, 602-664), và Chơn Đế (s: Paramārtha, 眞諦, 499-569) được xem như là 4 nhà phiên dịch lớn. Ngoài việc phiên dịch, sư còn lấy giới luật dạy dỗ đồ chúng. Trước tác của sư có Nam Hải Ký Quy Nội Pháp Truyện (南海寄歸內法傳) 4 quyển, Đại Đường Tây Vức Cầu Pháp Cao Tăng Truyện (大唐西域求法高僧傳) 2 quyển, v.v… Trong tác phẩm của sư có ghi lại những sinh hoạt của chư tăng, phong tục, tập quán, v.v., ở các nước mà sư đã từng đi qua, là tư liệu vô cùng quan trọng để chúng ta có thể biết được Ấn Độ đương thời như thế nào. Sư thị tịch vào tháng giêng năm thứ 2 niên hiệu Tiên Thiên (先天), hưởng thọ 79 tuổi. Tháp được dựng tại Long Môn (龍門), Lạc Dương (洛陽).
[4] 惛 沈 Hôn trầm: S: styāna. Một trong Đại phiền não địa pháp ghi trong A-tì-đạt-ma Câu-xá luận. Là một trong 20 tuỳ phiền não trong giáo lí Duy thức. Là tâm hành trở nên mê muội và chìm đắm. Sự u sầu, u uất. (Theo từ điển Phật học Đạo Uyển).
[5] 尊儀Tôn nghi: Nghi dung Tôn quí. 尊貴之儀容
[6] 禺中Ngun trung: Gần giờ ngọ意思是将近午时. Có bản ghi nhầm là Nam trung男中.
[7] 授事Thọ sự: tiếng Phạn là Yết Ma Đà Na羯磨陀那, Đà Na là thọ, Yết Ma là sự. Ý nói đem các việc lặt vặt giao cho người. Xưa gọi Duy na維那 là sai vậy. Duy là tiếng nước Đại Đường, nghĩa là kỷ cương khuôn phép, Na là âm tiếng Phạn, lược bỏ chữ Yết Ma Đà. 授事者,梵云羯磨陀那。陀那是授,羯磨是事。意道以眾雜事指授於人。舊云維那者,非也。維是唐語,意道綱維。那是梵音,略去羯磨陀 字)
[8]健稚: Kiền-trì, Kiền-trĩ, Kiền-để): khí cụ dùng để đánh báo giờ trong tự viện. Theo luật Ngũ Phần 18 và Đại Tỳ-kheo Tam Thiên Oai Nghi, q. hạ, khi bố-tát hoặc tụng kinh hoặc tập hội chúng tăng thọ trai v.v…đều có thể đánh kiền-chùy, giống như việc đánh bảng trong các tự viện ngày nay. Tiếng Phạn là ghanta, trong các kinh dịch có khác nhau, hoặc dịch là chuông, khánh, linh báu, mõ v.v.
[9] Lấy loại gỗ thơm Chiên Đàn, Trầm Thủy, nghiền ở trên đá, hòa với nước mà mài thành bột, rồi đem thoa lên thân tượng, kế đó lấy nước tắm gội Tôn tượng. 取栴檀沈水香木之輩。於礎石上。以水磨使成泥。用塗像身。方持水灌.
[10] 白㲲 (疊) Bạch chiên (điệp): Lụa trắng mịn.
[11] 澄華 Trừng hoa: Băng hoa sáng sạch明凈的冰花
[12] 開堂 Khai đường: Tiếng dùng trong Thiền lâm. Nguyên là nghi thức trong việc dịch kinh đời xưa. Hàng năm, đến ngày Thánh đản (sinh nhật của vua), viện Dịch kinh thường phải dâng một bộ kinh mới dịch lên để chúc thọ vua. Hai tháng trước đó, các quan nhóm họp để xem xét việc dịch kinh. Rồi trước ngày Thánh đản 1 tháng, các vị Dịch kinh sứ và quan nhuận văn lại nhóm họp để dâng bộ kinh ấy lên vua, gọi là Khai đường. Về sau, buổi tuyên thuyết đại pháp của vị Tân trụ trì trong lễ nhập tự cũng được gọi là Khai đường, đây là nghi thức quan trọng trong Thiền lâm. Trong lễ nhập tự, cũng có nghi thức cầu nguyện quốc thái dân an, Thánh hoàng muôn tuổi, cho nên cũng được gọi là Khai đường chúc thọ, Khai đường chúc thánh, Chúc quốc khai đường. Về nghi thức Khai đường thì trước hết cung thỉnh một vị tăng đức độ cao vời, kiến thức sâu rộng, giữ chức Bạch chùy sư, an tọa tại phía đông pháp tòa để giám sát việc khai đường. Các quan viên thì ngồi đối diện với pháp tòa. Kế đến nghinh thỉnh vị Trụ trì, sau khi trình công văn (những giấy tờ về việc bổ nhiệm Trụ trì) và tuyên nói pháp ngữ, vị Duy na đọc các lá sớ. Sau đó, vị Trụ trì đưa tay chỉ về phía pháp tòa, tuyên thuyết pháp ngữ, rồi thăng tòa niệm hương chúc mừng Thánh thọ. Khi Đế sư và các quan lần lượt niệm hương xong, Bạch chùy sư gõ một tiếng kiền chùy (cái kiểng) rồi nói (Vạn tục 113, 118 hạ): Chúng long tượng trong pháp hội, nên quán xét Đệ nhất nghĩa. Tiếp theo, vị Trụ trì nêu lên cương yếu của tông môn, cảm tạ các quan, chư sơn Thiền đức, Bạch chùy sư lại gõ chùy xướng rằng: Quán xét kĩ pháp của Pháp vương, pháp của Pháp vương là như thế. Sau cùng, vị Trụ trì dộng tích trượng xuống đất một tiếng, rồi bắt đầu vấn thoại (hỏi đáp giảng giải). Vấn đáp xong, kết thúc nghi thức Khai đường. Ngoài ra, Khai đường Hòa thượng là một vị Chấp sự quan trọng trong đàn truyền giới ở Trung quốc. Về các pháp tắc thụ giới, về các nghi lễ và quy củ sinh hoạt của giới tử, v.v… đều do Khai đường hòa thượng chỉ dạy. [X. Tổ đình sự uyển Q.8; điều Nhập viện khai đường chúc thọ, chương Trụ trì trong Bách trượng thanh qui Q. thượng; môn Tùng quĩ trong Thiền lâm tượng khí tiên].
[13] 普請 Phổ thỉnh: Cũng gọi Xuất pha. Mời tất cả mọi người. Trong Thiền lâm, khi làm các việc nặng nhọc thì mời tất cả đại chúng chung sức để thực hiện, gọi là Phổ thỉnh. Cứ theo Nhập đường cầu pháp tuần lễ hành kí quyển 2, chế độ Phổ thỉnh được thực hành ở khắp các tùng lâm vào đời Đường. Đến mùa thu hoạch nho táo, rau đậu, thì các bậc Thượng tọa trong Thiền viện cũng tham gia hái quả, nhặt lá; lúc nhà bếp hết củi thì chúng tăng đi lấy củi. Vì các Thiền viện thời xưa hầu hết đều làm ruộng, nên các việc cày cấy, hái chè… đều phải phổ thỉnh. Ngoài ra, việc xây dựng nhà cửa cũng gọi là Phổ thỉnh, vì phải cần nhiều người hợp lực tham gia. [X. Phổ thỉnh pháp trong Tăng đường thanh qui Q.3; Đại tống tăng sử lược Q.thượng; điều Phổ thỉnh trong Sắc tu Bách trượng thanh qui Q.6; điều Bách trượng Hoài hải trong Cảnh đức truyền đăng lục Q.7; điều Qui sơn Linh hựu Q.9; điều Hoàng bá hi vận Q.12 và điều Hoa nghiêm Hưu tĩnh Q.17; Bích nham lục tắc 5; Liên đăng hội yếu Q.4, 7; môn Tùng quỹ trong Thiền lâm tượng khí tiên].
[14] 制 底 Chế để: Còn gọi là chi đề Sktcaitya, Pālicetya, có nghĩa là tích tụ, hay tụ tướng. Lúc trà tỳ đức Thế tôn, nơi đây đã từng tích tụ gỗ thơm rất nhiều, nên sau này nơi này trở thành linh tích. Ở đây còn có nghĩa là nơi tích tụ vô lượng phước đức của đức Thế tôn nên nơi đây đã dựng lên những linh miếu, tháp miếu v.v… nên gọi là chi đề, hay chế để.
[15] 緣起法頌 Duyên khởi Pháp tụng: Gọi tắt của Duyên khởi pháp chi kệ tụng. Cũng gọi Duyên khởi kệ. Tức là văn kệ nói về Khổ, Tập, Diệt trong bốn đế, là nghĩa căn bản của Phật giáo. Văn kệ bằng tiếng Phạm như sau: Ye dharmà-hetu prabhavàhetuô tewaô tathàgato hy avadat, tewaô ca yo nirodho evaô vàdì mahà-zramaịa#. Văn kệ bằng tiếngPàli: Ye dhammà hetu-ppabhavà tewaô hetuô tathàgato àha, tesaĩ ca yo nirodho evaô vàdì mahàsamaịo. Bản Hán dịch của bài kệ này trong các kinh luận có khác nhau, kinh Sơ phần thuyết quyển hạ (Đại 14, 768 trung), chép:Nhược pháp nhân duyên sinh Pháp diệc nhân duyên diệt Thị sinh diệt nhân duyên Phật đại sa môn thuyết. (Pháp từ nhân duyên sinh Cũng theo nhân duyên diệt Nhân duyên sinh diệt ấy Phật đại sa môn nói). Hữu bộ tì nại da Xuất gia sự quyển 2 (Đại 23, 1027 hạ), chép: Chư pháp tòng duyên khởi Như lai thuyết thị nhân Bỉ pháp nhân duyên tận Thị đại sa môn thuyết. (Các pháp từ duyên sinh Như lai nói là nhân Pháp ấy do duyên diệt Đại sa môn nói thế). Luận Đại trí độ quyển 11 (Đại 25, 136 hạ), chép: Chư pháp nhân duyên sinh Thị pháp thuyết nhân duyên Thị pháp nhân duyên tận Đại sư như thị thuyết (Nhân duyên sinh các pháp Pháp ấy là nhân duyên Nhân duyên hết pháp diệt Đại sư nói như vậy) Cứ theo Luật tạng đại phẩm (Pàli: Mahà-vagga) I.23 và luật Tứ phần quyển 33, thì bài kệ này do tỳ kheo Mã thắng (Phạm: Azvajit, Pàli: Assaji) nói cho ngài Xá lợi phất (khi còn tu theo ngoại đạo) nghe, nhờ đó, ngài Xá lợi phất chứng được quả Dự lưu, rồi cùng với ngài Mục kiền liên (bạn đồng tu) cùng về quy y theo Phật. Nếu bài kệ tụng này được viết trên tháp, hoặc để vào trong tháp hay trong tượng Phật, thì gọi là kệ Pháp thân xá lợi hay kệ Pháp thân. Ở cuối các kinh bản tiếng Phạn hiện còn hoặc bản dịch Tây tạng thường có ghi, rồi ở tòa ngồi hoặc trên hào quang sau lưng tượng Phật cũng khắc bài kệ này. [X. Trường trảo Phạm chí duyên trong kinh Soạn tập bách duyên Q.10; kinh Quá khứ hiện tại nhân quả Q.14; phẩm Đại đệ tử xuất gia trong Phật sở hành tán Q.4; phẩm Bảo chàng phần ma khổ trong kinh Đại phương đẳng đại tập Q.19; kinh Thánh ca ni phẫn nộ kim cương đồng tử bồ tát thành tựu nghi quĩ Q.thượng; luật Ngũ phần Q.16; luận Đại trí độ Q.18; Đại nhật kinh sớ Q.7; Quán mộc tôn nghi trong Nam hải kí qui nội pháp truyện Q.4].
[16]大沙門Đại sa môn: Phạm: Mahà-zramaịa, Pàli: Mahàsamaịa. Tiếng tôn xưng đức Phật. Phật là bậc sa môn vĩ đại nhất trong các sa môn, nên gọi là Đại sa môn. Ngoài ra, so với sa di hoặc người ngoại đạo xuất gia thì tỳ kheo cao cả hơn nên cũng gọi Đại sa môn. [X. luật Tứ phần Q.33]..
[17] 輪相 Luân Tướng: Cũng gọi Tướng luân, Thừa lộ bàn, Luân cái. Bộ phận kiến trúc hình cái lọng trên đỉnh tháp. Ở Nhật bản bộ phận này thường là 9 lớp nên gọi Cửu luân. Nam hải kí qui nội pháp truyện quyển 4 (Đại 54, 226 hạ) nói: Đáy phẳng nhỏ bằng quả táo, trên đặt luân tướng, ngọn nhỏ như cây kim. [X. Phiên dịch danh nghĩa tập Q.7]. (xt. Thừa Lộ Bàn) (一)指塔頂上之輪盤形建築。又作相輪、承露盤、輪蓋。在日本,相輪通常有九層,故又稱九輪。經律中又有金剎、露盤等名稱。南海寄歸內法傳卷四(大五四·二二六下):「制底如小棗,上置輪相,竿若細針。」[翻譯名義集卷七](參閱「承露盤」3254)
[18] 七海 Thất Hải: Bảy biển. Núi Tu di có 7 lớp núi vàng bao bọc, ở khoảng giữa các núi ấy có 8 lớp biển. Ngoài lớp biển nước mặn, thì 7 lớp biển còn lại đều chứa đầy nước 8 công đức, được gọi chung là Thất hải. THẤT HẮC SƠN Chỉ cho 7 ngọn Hắc sơn ở khoảng giữa từ phía bắc thành Tì xá ly, Trung Ấn độ, đến núi Hương túy (Phạm: Gandhamadana) thuộc dãy Hi mã lạp nhã ở Bắc Ấn Độ. Phẩm Diêm phù đề trong luận Lập thế a tì đàm quyển 1 ghi tên của 7 ngọn núi này như sau: Núi Tiểu hắc, núi Đại hắc, núi Đa li ngưu, núi Nhật quang, núi Ngân, núi Hương thủy và núi Kim biên. Nếu người lên đỉnh núi Kim biên, đứng xoay mặt hướng Bắc, trông về nơi xa thẳm thì chỉ thấy màu tối đen. Theo luận Câu xá quyển 11 thì các núi thuộc dãy Hi mã lạp nhã trên chóp núi thường có tuyết trắng bao phủ, cho nên gọi là Tuyết sơn. Còn các núi ở phía nam thì trên đỉnh không có tuyết phủ, thay vào đó là cây cối um tùm, rậm rạp, chỉ toàn một màu tối đen, cho nên gọi là Hắc sơn.
[19] 別經 Biệt kinh: Các kinh khác: Phật Thuyết Tạo Tượng Công Đức Kinh do Địa Bà Ha La dịch vào đời Đường, Phật Thuyết Đại Thừa Tạo Tượng Công Đức Kinh do Đề Vân Bát Nhã dịch vào đời Đường…
[20] 尊容 Tôn dung: Dáng vẻ tôn quý, chỉ cho hình tượng Phật, hình tượng Thần. 尊容是一个汉语词汇,意思是尊贵的容貌﹐特指佛像﹑神像
[21] Chỉ cho truyền Thống Phật Giáo Trung Quốc, cử hành hoạt động tắm Phật vào ngày mùng 8 tháng tư, là ngày Phật Thích Ca Mâu Ni giáng sanh.
******—————————————————–******
Xuân đến rồi đi, hoa nở lại tàn, đó là định luật muôn thuở của vũ trụ. Tuy nhiên, có một mùa xuân không đến cũng không đi, hoa xuân vẫn nở mãi trong lòng người con Phật, không bao giờ tàn phai, một mùa xuân bất tận cho những ai thấy được thực tướng của các pháp.
Ta thấy được tinh thần nầy qua bài thơ của Thiền sư Đạo Xuyên:
远观山有色
近听水无声。
春去花还在
人来鸟不惊。
头头皆显露
物物体元平。
如何言不会
祗为太分明。
“Viễn quan sơn hữu sắc.
Cận thính thủy vô thinh.
Xuân khứ hoa hoàn tại.
Nhơn lai điểu bất kinh.
Đầu đầu giai hiển lộ.
Vật vật thể nguyên bình.
Như hà ngôn bất hội.
Chỉ vị thái phân minh.”
Tạm dịch:
Đứng xa nhìn mà núi vẫn màu xanh.
Lại gần nghe nước chảy không âm thanh.
Xuân đi hoa còn nở.
Người đến chim không sợ.
Mọi thứ hiển bày rõ.
Mọi vật tánh bình lặng.
Nói mãi sao không ngộ.
Do phân biệt quá nhiều.
Văn từ trong bốn câu đầu bài thơ miêu tả như một bức tranh, cho nên có khi người ta gá thêm chữ “họa” ở đầu đề. Họa về cảnh núi non thì ta thấy quá rõ về hình sắc, nên đứng xa thấy vẫn có suối chảy, có chim, có hoa núi bừng khai khi xuân về ấm áp; Khi đến gần thì không nghe tiếng suối chảy; Dù mùa xuân qua rồi nhưng hoa vẫn còn nở mãi; Người đến nhưng chim không bay đi. Bốn câu nầy mới đọc qua ta thấy tác giả dường như đang diễn tả về một bức tranh, đề cập về ngoại cảnh thiên nhiên.
Thế nhưng, bốn câu sau ta thấy tác giả không đề cập gì đến bức tranh cả, mà nói toàn nói về tự tánh thanh tịnh của nội tại, mượn cảnh để nói về thiền lý, nhìn cảnh vật với một tự tánh thanh tịnh.
Do đó, mới thấy được mọi thứ đều là đạo, mọi chỗ đều hiển lộ tự tánh sáng suốt, mọi sự mọi vật tự tánh của chúng vốn giống nhau, xưa nay vốn bình đẳng không hai không khác. Sở dĩ không rõ được bản thể xưa nay, chỉ vì rơi vào sự phân biệt tầm thường, rồi tư duy chấp trước.
Tự tánh thấy núi, mặc dù có sắc tướng, nhưng có cũng như là không, tất cả chỉ là huyễn tướng; tự tánh nghe nước chảy, mỗi tiếng đều không có thực thể, nên có tiếng cũng như là không tiếng; tự tánh nhìn thấy hoa mùa xuân, không có thủ xả, ngay lúc ấy đó chính là tự tánh, cho nên mùa xuân đi qua rồi hoa vẫn còn hé nụ, đây là hoa của tự tánh, mà hoa của tự tánh thì không có tàn phai, vì tự tánh vốn không có duyên sanh diệt; người đến gần, chim vì sợ mà bay đi, nhưng tự tánh của chim thì vẫn tự tại như nhiên, không từng sợ sệt điều chi. Tất cả mọi thứ hiển bày rõ thì đều là tự tánh đại đạo; muôn sự muôn vật đều có tự tánh thanh tịnh, xưa nay vốn bình đẳng; Thiền sư đã nói như vậy mà không lãnh hội được, bởi vì người ta thường đem tự tánh thanh tịnh sáng suốt chuyển thành vọng thức tư duy phân biệt. Vậy thì toàn bộ bài thơ là nói về Thiền lý, trong đó liên quan đến cảnh vật và con người đạt đến sự triệt ngộ. Thiền sư Bàng Uẩn nói:
但自无心于万物
何妨万物常围绕
铁牛不怕狮子吼
恰是木人见花鸟
木人本体自 无情
花鸟逢人亦不惊
心境如如只个是
何虑菩提道不成
庞蕴居士
Phiên âm:
Đản tự vô tâm ư vạn vật
Hà phương vạn vật thường vi nhiễu
Thiết ngưu bất phạ sư tử hống
Kháp tự mộc nhân kiến hoa điểu.
Mộc nhân bản thể tự vô tình
Hoa điểu phùng nhơn diệc bất kinh
Tâm cảnh như như chỉ cá thị
Hà lự Bồ đề đạo bất thành
(Bàng Uẩn Cư sĩ).
Tạm dịch
Đối với muôn vật vô tâm nha
Nào ngăn muôn vật nhiễu hại ta
Trâu sắt thản nhiên Sư tử rống
Khác gì người gỗ ngắm chim hoa.
Tình trong người gỗ vốn là không
Người gặp chim hoa bản thể đồng
Tâm cảnh như như là thế đấy
Lo gì giác ngộ chẳng thành công.
Đây là miêu tả sự thanh tịnh của tự tánh, bặt dứt tư lự không còn dùng phán đoán của tâm thức, vạn vật như nhiên. Chính vì tự tánh thanh tịnh, nên đối với cái nhìn về vạn vật xung quanh hoàn toàn thanh tịnh.
Tướng do tâm sanh, cảnh theo tâm hiện, nội tâm thanh tịnh thì ngoại tướng tự nhiên cũng thanh tịnh. Tâm mình vui vẻ điều hòa, thì ngoại duyên cũng vui vẻ điều hòa. Tâm mình thay đổi thế nào, thì thế giới cũng thay đổi như thế ấy.… tâm ta buồn thì nhìn vạn vật u buồn, tâm ta vui nhìn vạn vật vui,… bởi vì tâm làm chủ muôn vật.
Tự tánh thấy núi tuy có sắc tướng, thì có cũng như không, chỉ vì huyển tướng mà thôi. Tự tánh nghe tiếng nước chảy, biết tiếng vốn là không thật, cho nên có tiếng cũng như không.
Tuy nhiên, mây bay nước chảy là hiện tượng tự nhiên, chúng ta phải sống hài hòa với thiên nhiên, không thể nào tách rời mà tồn tại.
Tự tánh xem hoa mùa xuân nở, không có lấy không có bỏ, không khen không chê, ngay lúc ấy là tự tánh. Cho nên mùa xuân đi rồi mà hoa vẫn còn nở.
Hoa bên ngoài có nở có tàn, dù là hoa trong bức họa đi nữa rồi cũng sẽ hư mục, nhưng hoa lòng, hoa giác ngộ, thì mãi mãi nở trọn vẹn trong tự tánh.
Câu mùa xuân đi rồi mà hoa vẫn còn hàm tiếu, ý nói thời gian dù có thay đổi, cảnh vật dù có bị vô thường chi phối, nhưng tâm hoa vẫn luôn luôn tồn tại. Sắc thân thì mất, nhưng pháp thân vẫn thường hiện hữu, pháp thân không bị vô thường chi phối. Mùa xuân ấy là biểu tượng của sự khai ngộ trong tiềm thức.
Thiền sư Mãn Giác có bài thơ sau:
春去百花落
春到百花开
事逐眼前过
老从头上来
莫谓春残花落尽
庭前昨夜一枝梅.
Phiên âm:
Xuân khứ bách hoa lạc.
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhãn tiền quá.
Lão tòng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận.
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Tạm dịch:
Xuân đi trăm hoa rụng.
– Vì đây là hoa của cây cỏ, hoa ở ngoại cảnh thiên nhiên.
Xuân đến trăm hoa nở.
– Đúng thời tiết nhân duyên thì bừng nở
Trước mắt việc qua mãi.
– Sự vô thường xoay vầy thay đổi, mọi việc diễn biến theo quy luật thành trụ hoại không, sanh trụ dị diệt.
Trên đầu già đến rồi.
– Còn con người thì phải biến thiên theo bốn tướng sanh lão bệnh tử.
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết.
– Hoa trong tự tánh không tàn phai dù mùa xuân đã qua.
Đêm qua sân trước một cành mai.
– Hoa nầy vượt ra ngoài khái niệm của thời gian.
Vì đây là mùa xuân giác ngộ, tự tánh đã bừng khai.
Mọi việc xao động, tâm viên ý mã đã ẩn sâu, bặt dứt hết núi tự ngã kia, thì hoa giác ngộ sẽ hiện hữu mãi trước mặt. Cho nên hoa tự tánh thì không tàn tạ theo thời gian, vì tự tánh thì làm gì có sanh diệt?.
Như sự ngộ đạo của Thiền sư Linh Vân, sau bao nhiêu năm bôn ba tham học với những bậc có tuệ giác lớn, nhưng đến khi thời tiết nhơn duyên đã chín mùi, Lúc dừng lại ngắm nhìn hoa đào nở thì ngộ đạo, Ngài làm bài thơ diễn tả cảnh ngộ của mình trình lên Thiền sư Qui Sơn ấn chứng:
三十年来寻剑客
几回落叶又抽枝
自从一见桃花後
直至如今更不疑
灵云志勤禅师.
Phiên âm:
Tam thập niên lai tầm kiếm khách
Kỷ hồi lạc diệp hựu trừu chi
Tự tùng nhất kiến đào hoa hậu
Trực chí như kim cánh bất nghi
Tạm dịch:
Ba mươi năm rồi tìm kiếm khách
– Sau nhiều năm bôn ba tham học với những bậc giác ngộ trí tuệ, để mong cầu chứng đắc cho mình, trong Phật giáo kiếm là tiêu biểu cho trí tuệ sắc bén.
Bao lần lá rụng lại đâm chồi
– Trải qua thời gian dài, qua bao độ biến thiên của sự vật, lá già rụng chồi non ra. Thu đi xuân đến, nhưng chưa thấy gì là chứng đắc, chỉ vì lo đi tìm ở bên ngoài, bỏ quên ông Phật trong lòng mình.
Từ khi nhìn thấy hoa đào nở
– Đương niệm tiếp xúc với hiện thực khách quan, hòa nhập tâm hồn vào trong rạng thái ngay bây giờ và ở đây. Không tìm kiếm xa vời nữa, vô thường tức thường; sắc chính là không, không chính là sắc; sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Không phân biệt nhị biên, đã về tức là đã tới.
Mãi đến hôm nay chẳng còn nghi.
– Tuệ giác đã bừng khai, vạn hữu hiển hiện rõ ràng ngay trong đương niệm, không còn tư lự phan duyên nghi ngờ gì nữa.
Thật là “Phật tức tâm, tâm thành vốn có Phật; Tâm tức Phật, Phật chứng ở tấm lòng thành”.
Mọi việc xao động tiêu tan, tâm ý phân biệt và núi tự ngã không còn, thì hoa giác ngộ sẽ hiện hữu mãi trước mặt.
Người đến chim thấy vì sanh tâm sợ hãi mà bay đi, nhưng chim trong tự tánh thì vẫn như nhiên không lay động, không từng kinh sợ lo lắng, tất cả muôn sự muôn vật ở thế gian bổn tánh vốn là thanh tịnh.
Cho nên khi Phật mới thành đạo Ngài nói: “Nào dè tự tánh xưa nay vốn thanh tịnh” hay Ngài cũng đã từng nói: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”.
Tự tánh xưa nay thanh tịnh, bình đẳng, như thế thì tại sao Thiền sư lại phải mở lòng từ nói như thế, bởi vì con người đa phần rơi vào trạng thái tư duy phân biệt, đem tự tánh sáng suốt giác ngộ bỏ quên, cho nên mới có câu “Vác Phật đi qua nhà người để tìm Phật”.
Đây là một sự đương niệm hiện thực của hành giả trong thiền lâm, Thiền sư Huyền Quang có bài thơ nói rõ về tinh thần không phân biệt nầy, chỉ biết nhìn vào ngay hiện thực, nhìn cho thật rõ những gì đang xảy ra, không suy niệm về tương lai hay quá khứ.
花在庭中人在楼
焚香独坐自忘忧
主人与物浑无竞
花向群芳出一头
Phiên âm:
Hoa tại đình trung nhơn tại lâu
Phần hương độc tọa tự vong ưu
Chủ nhơn dữ vật hồn vô cạnh
Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu.
Tạm dịch:
Người ở trên lầu hoa dưới sân
– Người và cảnh cùng hiện hữu trong một không gian.
Vô ưu ngồi ngắm khói trầm xông
– Biết trở về chính mình an nhiên không tư lự, vượt ngoài cái hạn hữu của thời gian.
Hồn nhiên người vật không tranh cạnh.
– Người là người vật là vật, không phân biệt nhị biên, không bị trần cảnh chi phối.
Đóa hoa nở rộ ngát hương thiền
- Cảnh tượng trước mắt, một thực tại trí tuệ hiện tiền, hương hoa giác ngộ thơm ngào ngạt khắp chốn.
Trong “Huệ Hải Thiền Sư nói: “Người mê không biết pháp thân, thì chẳng gì khác ứng vật hiện hình, bèn gọi xanh xanh trúc biếc đều là pháp thân, rực rỡ hoa vàng đều là bát nhã. Hoa vàng nếu là bát nhã, thì bát nhã tức đồng với vô tình; trúc biếc nếu là pháp thân, thì pháp thân tức đồng với cây cỏ.”
Về sau nầy, nhân vì thế mà câu “Trúc biếc hoa vàng” là chỉ cảnh tượng trước mắt, thực tại đang là, không truy tìm về quá khứ, không ước vọng tương lai, mà là một thực tại hiện tiền. Hoa vàng còn chỉ cho hoa cúc.
Sách “Lễ Ký. Thiên Nguyệt Lệnh” chép: “Tháng cuối thu, hoa có màu vàng thì chỉ có loài hoa cúc”.
Ý thức luôn luôn chạy theo vọng tưởng, đó là căn bệnh cố hữu của tất cả chúng sanh. Vì vậy làm thế nào để “Tâm không ngăn ngại nơi mọi vật”, rỗng suốt tất cả, để đạt được tâm cảnh an nhiên, tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên.
Năm mới xuân về trăm hoa đua nở, cũng chính là hình ảnh bao nhiêu hoa nở của những mùa xuân trước “tân niên hoa phát cố niên hoa”, đời như bào ảnh nhấp nhô giữa trùng dương mênh mông, công danh phú quí khác chi đám phù vân lênh đênh trên nền trời, bốn mùa xoay vần hết xuân rồi lại đến thu, cuộc sống cứ tiếp diễn và trôi qua mãi mãi không bao giờ dừng lại. Chỉ có Đức Phật ngài đã tìm ra mùa xuân mới, một mùa xuân không có thời gian cũng không có không gian, một mùa xuân giải thoát an lành cho nhân loại.
Cho dù trong cuộc sống gặp nghịch cảnh đi nữa, chúng ta cũng nên nở một nụ cười hoan hỷ buông bỏ tất cả, bặt dứt hết mọi ý niệm phân biệt nhị biên để “ánh xuân quang Phật nhật” được bừng lên từ cõi miền sâu xa của dòng tâm thức vô tận. Lúc ấy chúng ta sẽ nhận ra được thể tánh sâu xa bình đẳng của vũ trụ vạn hữu. Trăm hoa đua nở ta đều biết, vạn vật đổi thay ta đều hay, vui xuân trong sự tỉnh thức, không chạy theo ảo ảnh sanh diệt của ngoại cảnh, mà sống trọn vẹn với chất xuân, chất xuân luôn hiện hữu, mà đã luôn hiện hữu, thì nào có đến có đi?. Tuy ta đón xuân một cách tuỳ duyên tùy tục, nhịp nhàng với cuộc sống đời thường nhưng từng bước chân thực tại vẫn đang an trú trong niềm hỷ lạc vô biên. Vì lẽ dòng suối hài hoà và niềm hạnh phúc chân chánh ấy, được khơi nguồn từ sự bình an vô tận, trong một tâm hồn khoáng đạt chứ không phải hướng về ngoại cảnh để truy cầu.
Năm tháng không chờ đợi người, sanh già bệnh chết ấy là lẽ thường tình của nhân sinh, sống chết chẳng qua chỉ là một giai đoạn trong tiến trình của sinh mạng. Đương nhiên, sự sống chết sẽ không còn là một chuyện thần bí nữa, nếu những ai đã thấy rõ được thực trạng của nó và tất cả chúng ta dường như ai ai cũng không thể đoán trước được điều gì sắp xảy ra trong một tương lai đầy hứa hẹn nào đó.
Người xưa khuyên chúng ta hãy nên siêng năng tu tập ngay từ khi tuổi còn trẻ, vì lúc tuổi già gặp nhiều sự trở ngại không thể tu được. Nếu người “việc làm đã xong” thì cho dù đại hạn có đến đi nữa nhưng họ vẫn tự tại an vui, không còn bối rối và bị nghiệp lực bức bách, như người tất bật lo toan trang trải nợ nần trong ngày chạp Tết.
Quá khứ thì đã qua rồi, hiện tại vẫn còn đang tiếp diễn, tương lai là những gì chưa thấy đến, người học Phật chúng ta nên vượt khỏi mọi ngăn cách của thời gian để thấy được lẽ hiện thực của cuộc sống.
Chúng ta nên hiểu biết thương yêu nhau, hãy đặt niềm tin tha thứ cho nhau, cùng dìu nhau trên bước đường giải thoát, an trú trong thực tại với tràn đầy niềm hỷ lạc, mùa xuân ngay bây giờ và ở đây. Được vậy thì “Xuân đi rồi mà hoa vẫn còn hé nụ”, mùa xuân nầy không còn hạn cuộc bởi khái niệm về thời gian và không gian nữa, mà là xuân trong tự tánh đương niệm thực tại hiện tiền.
Nha Mân 2024.
THÍCH THỊ PHƯỚC
Từ đó, nguồn cội yêu thương hiếu đạo đã được khơi dậy một cách mạnh mẽ, nên rằm tháng bảy trở thành một lễ hội truyền thống tri ân cao quý của Phật giáo: Tết trung nguyên, rằm tháng bảy, địa quan xá tội, Mục liên cứu mẹ, lễ tự tứ,…Đây là ngày lễ truyền thống của đạo lý Việt Nam, dạy cho mọi người xóa bỏ hận thù, biết làm mới với tinh thần “Xá Tội – tha thứ những lỗi lầm”.
Con quỳ lạy Phật Thích Ca
Chứng minh đệ tử tên là Mục Liên
Lòng con mộ đạo tu hiền
Xuất gia theo Phật cầu nguyền hôm nay.
Nghe kinh Phật thuyết bảy ngày
Minh tâm kiến tánh như lai trọn lành
Lục thông đầy đủ nên danh
Muốn tìm Cha Mẹ lòng thành gắng công.
Đền ơn cho bú ẵm bồng
Liền dùng đạo nhãn xem liền thế gian
Thấy vong Mẹ khổ muôn vàn
Ốm gầy đói khát trong đàng quỷ ma.
Mục Liên kêu Mẹ khóc la
Đau lòng thương Mẹ đọa sa Diêm đình
Thanh Đề nhìn thấy con mình
Mục Liên cứu Mẹ hết tình gắng công.
Con ơi! Mẹ đói trong lòng
Mục Liên nghe nói khóc ròng thở than
Vội vàng trở lại thế gian
Bới cơm một bát đem sang Mẹ mừng.
Và cơm vô miệng nửa chừng
Chén cơm hóa lửa phừng phừng thành than
Mục Liên xem thấy kinh hoàng
Trong lòng đau đớn khóc than buồn tình.
Mẹ ơi! Niệm Phật độ mình
Trở về lạy phật cầu xin Mẹ già
Thích Ca Đức Phật phân qua
Mẹ ngươi tội nặng đọa ra nghiệp hành.
Ta truyền cứu tế pháp lành
Cần cầu Tăng chúng tịnh thanh chú nguyền
Cầu cho Phụ Mẫu hiện tiền
Lục thân quyến thuộc bình yên đều hòa.
Bảy đời Phụ Mẫu đã qua
Về Trời hưởng phước sáng lòa hào quang
Vui chơi thong thả thanh nhàn
Ngày rằm tháng Bảy lập đàn trai tăng.
Sắm cơm trăm món đồ ăn
Trái cây ngũ quả hương đăng rõ ràng
Chiếu, giường, bồn nước, mùng, màn
Dầu, đường, trà lá, bát vàng đựng cơm.
Những đồ vật quý bông thơm
Thành tâm dọn tiệc Lan Bồn phân minh
Cúng dường Tam Bảo cầu Kinh
Chư Tăng tịnh giới giữ gìn nghiêm trang.
Cầu cho Thí chủ Trai đàn
Tâm hành thiền định vái van chúc nguyền
Thanh Đề khổ ách hết liền
Ngày rằm tháng Bảy thành tiên về Trời.
Noi gương hiếu thảo đời đời,
Xót thương Phụ Mẫu hiện thời nuôi con.
Nhai cơm cho bú hao mòn
Ơn sâu nghĩa nặng thương con hết lòng.
Trời cao đất rộng mênh mông
Biển hồ lai láng sánh đồng Thái sơn
Tu hành báo tứ trọng ân
Độ đời ba cõi sạch trơn trọn lành.
Mục Liên đại hiếu tu hành
Báo ân Phụ Mẫu nên danh độ đời.
Câu chuyện của hai đóa hồng trong đêm trước ngày Vu Lan. Đó là Hồng Nhung đỏ Giảm và Hồng trắng tinh khôi.
Ngày lễ Vu La n người ta cài lên cánh mình đóa Hồng Nhung nếu họ may mắn còn có mẹ, người mất mẹ cài đóa Hồng trắng cho mình.
Đêm tháng 7 Âm lịch. Ngày trăng thứ 14 đủ tròn và sáng để chiếu lên vạn vật. Vườn hồng nằm dưới ánh trăng vàng dịu dàng. Tia sương của đêm đọng lại lá, lên những cánh hồng. Những đóa hồng tỏa mùi thơm khắp không gian về đêm. Chỉ còn đêm nay nữa thôi, sáng mai sớm hết những thứ đóa hồng này sẽ được ngắt, để người đời dùng chúng thay cho lời tri ân với mẹ! Ngày Lễ Vu Lan.
Hồng Trắng được trồng cạnh Hồng Nhung. Hồng Trắng say sưa tận hưởng cái lạnh của sương, uống lấy từng giọt sương để khiến mình có thể rực rỡ nhất vào ngày mai. Đóa Hồng Nhung nhìn bạn đang cố gắng hết sức có thể để tăng nhựa sống cho mình, Hồng Nhung rụt rè nói với bạn:
– Hồng Trắng ơi, mai là ngày lễ Vu lan rồi, cậu có buồn không?
– Tại sao lại buồn chứ?
Gương mặt Hồng Trắng vẫn tươi tắn lạ thường. Hồng Nhung khẽ khàng:
– Tớ không biết vì sao trong ngày lễ Vu lan con người lại dùng tớ, một loài hoa hồng mang màu đỏ để dành cho những người còn mẹ trên đời. Còn cậu – loài hoa hồng trắng luôn phải dành cho những người đã mất mẹ. Có khi nào cậu thấy buồn không?
– Không đâu, tớ không phải là đại diện cho sự bất hạnh của những người mất mẹ, tớ thay họ nói lên tình yêu vô bờ bến mà họ dành cho mẹ. Họ dùng tớ để thay lời cảm ơn và thể hiện lòng kính yêu với mẹ, ngay cả khi mẹ không còn trên thế gian này nữa. Được cài trước lồng ngực của những người mất mẹ, tớ nghe được tiếng thổn thức, một nỗi xót xa trào dâng qua từng nhịp đập của con tim.
- Nhưng những người còn mẹ sẽ vui vẻ hơn những người mất mẹ vì vậy nếu được chọn cài lên ngực những người còn mẹ sẽ hạnh phúc hơn rất nhiều phải không nào? Hồng Nhung gặng hỏi bạn.
- Tôi nghĩ đến tớ khi nằm trên thăng của người khác, những người may mắn còn mẹ sẽ hiểu họ cần phải làm gì xứng đáng với ân huệ mà cuộc đời còn dành cho họ. Họ cần phải có nhiều hơn để đến một ngày nào đó khi phải cài đặt lên vũ khí, họ không cảm thấy ân hận vì mình đã không làm một người tốt. Tôi hạnh phúc khi nói thay tình yêu của những người mất mẹ và nuôi dưỡng tới những người còn mẹ. Tôi đã làm giả sứ của tình nguyên tử quý giá.
Hồng Nhung nhìn Hồng ngưỡng ngưỡng. Cả hai yên lặng hút dưỡng dưỡng từ đất và uống sương đêm để mình đẹp hơn vào ngày mai.
(Diệu Bạch St)
◊-◊—————————————– ———————-◊-◊
NĂM THÁNG DẦN TRÔINĂM THÁNG DẦN TRÔI
Thích Thiện Phước
Cuộc đời là một hành trình luôn đưa ta về phía trước, không giậm chân tại chỗ, không lùi lại phía sau, từng bước chân trải dài ấy, luôn mang theo: Ước mơ thách thức, hạnh phúc niềm đau, nụ cười tiếng khóc, thất bại thành công, nhục vinh được mất,… có người đạt được đỉnh cao của sự nghiệp một cách mau chóng dễ dàng khi còn rất trẻ, có người lận đận mãi vẫn không thành, có người thì chưa lên đến đài vinh quang thì nhìn lại đã già, hơi tàn sức kiệt, rồi phải chống chọi chịu đựng với bệnh tật, như chờ đợi đến hồi kết thúc một chuyến đi xa…
Ai cũng có một thời vẫy vùng xông pha nơi chân trời góc biển, rồi cũng có lúc phải thu mình bình lặng chốn quê nhà, vui cùng cỏ nội mây ngàn, đếm từng giọt mưa rơi như dòng thời gian của đời người đang trút xuống… trở về sống cho mình, ngồi cắt móng tay, đếm từng hơi thở, soi gương nhìn mặt mình thật kỹ thật lâu, để thấy những nếp nhăn in đậm nét phong trần, thấy mây bay cuối tận chân trời mà lòng đầy xao xuyến, bỗng quên đi bao ký ức về cuộc đời thành bại nhục vinh, đã là lữ khách trần gian thì cái gì là của họ của ta, đến lúc an lòng nhìn lại buông xuôi muôn duyên để nhẹ lòng cho một chuyến đi về…“cô đơn không hẵn một mình, một mình không hẵn cô đơn”, chim hót, lá rơi, bầu trời đầy sao đêm…chỉ một mình ta nhưng ngập tràn hạnh phúc bao la.
Mờ sáng rừng thiền chưa dọi nắng
Đêm về hoa cỏ cũng lặng yên
Từng tiếng chim kêu bình minh dậy
Sương lờ bóng nguyệt giới hương bay.
Thật ra, đời người mau chóng lắm bạn, tất cả mọi chúng ta đều sẽ có ngày ly biệt và đến điểm dừng, đó là ngày mà mình rời xa thế giới nầy, ly biệt người thân thương, mọi thứ mà ta gắn bó trân quí yêu thích rồi cũng phải buông xuôi, ta không giữ mãi những gì mình có được, mất mát, đổi thay, tàn hoại…vì thế gian là vô thường, có một thứ không bao giờ thay đổi, đó là luôn luôn thay đổi, sống ở đời đôi lúc cũng phải tuỳ duyên, thay đổi chính mình cho phù hợp với thời đại hoàn cảnh, nếu ta không thay đổi thì sẽ bị thay thế và lùi về phía sau.
Nếu biết còn vài ngày, vài giờ, vài phút giây nữa để sống, thì bạn sẽ sống như thế nào, và làm gì cho khoảng thời gian còn lại của mình?… Ai nấy đều có nỗi khổ niềm đau, vì vậy cho dù hoàn cảnh nào, ta phải sống tràn ngập tình thương yêu: Bản thân, mọi người và muôn loài, khi tình thương đủ lớn thì cánh cửa khổ đau cũng dần khép lại, xin cho đi tình thương vô hạn bằng nhiều phương diện ở trong đời.
Lạy Phật mong sao cho con và mọi người mọi loài sống an lành tự tại, như cánh hạc tung bay giữa bầu trời cao rộng thênh thang, như những đám mây nhẹ nhàng phiêu bồng cao vút chốn thiên không, như dòng nước thì thầm len lõi xuyên qua mọi ngóc ngách của vũ trụ bao la, thong dong từng bước chân đi ngang cuộc đời một cách an toàn không vướng mắc, như làn gió thổi qua những cánh đồng hoa cỏ, mang theo hương thơm vi diệu lan tỏa khắp mọi chân trời.
Thời gian của kiếp người là một nguồn tài nguyên có giới hạn, không thể tái chế, mua bán, trao đổi, tiền bạc châu báu mất đi hôm nay, ngày mai có thể tìm được, còn thời gian trôi qua rồi, sẽ không bao giờ trở lại. Món quà vô giá này, tạo hóa đã ban cho chúng ta và muôn loài đồng đều như nhau. Mỗi ngày đêm có 24 giờ đồng hồ, nhưng chúng ta sử dụng vào việc gì, đó là chuyện cá nhân của từng người…
Đời người sống vài mươi năm, thật quá ngắn ngủi so với vòng luân hồi vô tận. Mỗi một hành nghiệp của chúng ta, dù tốt hay xấu, đều ẩn tàng lý nhân quả ở đó. Vì vậy, khi được làm thân người, bạn hãy tận dụng cơ hội hiếm có nầy, cố gắng sống nhân từ, đạo đức, chân chánh, trung nghĩa, thanh cao, liêm khiết,… trải lòng yêu thương giúp đỡ mọi người.
Cuộc đời, vốn dĩ có nhiều sự bất an đau khổ, ta nên sống sao cho có ý nghĩa, mang lại niềm vui cho mình và người. Ngày ngày tu nhân tích đức, sớm sớm tinh tấn công phu, cầu mong cho mọi người hết khổ, sống đời an vui hạnh phúc trong cõi phù du mộng ảo nầy.
Tuy nhiên, cuộc đời thật tươi đẹp cho những ai sống chân thật với nó: Và vẫn còn đâu đó những khoảng trời bình yên vô hạn, những đàn cò trắng bay lượn xa xa trên cánh đồng lúa bất tận giữa buổi chiều thu nhạt nắng, những khu rừng nguyên sinh xanh thẳm bao la, những dòng sông tĩnh lặng uốn khúc êm đềm, những chú ong dễ thương chăm chỉ hút mật, những đàn bướm bay chập chờn trong vườn hoa cỏ dại khi bình minh về còn đượm thấm sương đêm….thành trụ hoại không – thế gian vô thường, sanh già bệnh chết – thân người giả tạm, xuân hạ thu đông – năm tháng dần trôi, lá rụng về cội nước chảy ra khơi, an nhiên cho một chuyến đi về,…
Thong dong ở mọi phương trời
Mây bay gió thổi mong đời an yên.
Gót chân thoát tục tuỳ duyên
Lối về hoa cỏ thiên nhiên thanh nhàn.
Nha Mân, 03/2023.
Kinh Vu Lan – Thích Thiện Phước.